“Mọi
người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới,
bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật,
hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác theo sự
lựa chọn của mình”
(Điều
19,2 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Liên Hiệp Quốc
biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982).
(Everyone
shall have the right to freedom of expression; this right shall include
freedom to seek, receive and impart information and ideas of all kinds,
regardless of frontiers, either orally, in writing or in print, in the
form of art, or through any other media of his choice.)
|
D I Ễ N Đ À N Trước
sau xưa rày cũng chỉ là
Mục sư Richard Wurmbrand (1909-2001), thuộc Hội thánh Tin Lành Luther tại Rumani, là một trong những tù nhân lương tâm nổi tiếng của chế độ Cộng sản, từng bị nhà cầm quyền giam 14 năm trong ngục. Trong cuốn sách “Ngồi tù với Chúa”, mục sư có đưa ra nhận định: cộng sản là một đảng cướp cấp quốc gia và quốc tế. Một bọn cướp thông thường chỉ tấn công và tạm thời chiếm lấy một ngôi nhà, một ngôi làng hay cùng lắm một thị trấn để tước đoạt tài sản. Nhưng đảng cộng sản -với chiêu bài “giải phóng” đầy mỵ dân và lường gạt- thì cướp nguyên cả một quốc gia, để nắm lấy quyền lực cách “hợp pháp” và lâu dài mà chẳng cần được ai bầu cả. Người CSVN từng vỗ ngực đã cướp được chính quyền về tay nhân dân (thật ra là về tay đảng) như thế! Rồi các đảng cộng sản tại mỗi nước lại liên kết với nhau, hỗ trợ cho nhau (có khi lại liên kết với các chế độ độc tài quân phiệt), làm thành một mạng lưới cai trị kiểu mafia đỏ (mà bọn mafia đen chưa đáng là học trò) trên khắp cả năm châu. Lịch sử cộng sản kể từ năm 1917 cho đến nay đã chứng minh điều đó. 1- Sau khi nắm được quyền, việc đầu tiên của đảng CS là cướp hết toàn bộ hệ thống điều hành xã hội, biến lập pháp, tư pháp và hành pháp vốn là tam quyền phân lập thành tam quyền phân công, dưới sự sai khiến của đảng, khiến quyền lực nhân dân trở thành hai bàn tay trắng. Tiếp đến đảng biến các lực lượng phục vụ đất nước xã hội như công an, quân đội, báo chí thành công cụ phục vụ riêng mình; thậm chí còn muốn biến cả lực lượng tinh thần là các giáo hội trở thành tay sai. Chưa hết, đảng CS biết rằng muốn giữ quyền lực lâu dài, thì cần phải có phương tiện. Phương tiện đó chính là mọi thứ tài nguyên quốc gia. Thành ra, đi ngược quyền tự nhiên là quyền sở hữu đất đai của cá nhân lẫn tập thể vốn được lương tri con người và công pháp quốc tế công nhận, đảng CS ngang nhiên công bố tước đoạt quyền đó để thiết lập “chế độ công hữu” (danh từ CS dùng là “sở hữu toàn dân”) hay thực chất là “đảng hữu” về đất đai. (Điều 11&12 trong Hiến pháp 1959, điều 19&20 trong Hiến pháp 1980 và điều 17&18 trong Hiến pháp 1992). Từ đó, mọi người dân và mọi tập thể (chẳng hạn các giáo hội, các dòng họ) chỉ còn quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu đất đai nữa. Đất đai từ nay sẽ được nhà nước (đúng ra là đảng) ban phát (trao quyền quản lý) theo chế độ “xin-cho” tùy theo sự ngoan ngoãn nhiều ít của kẻ cầu ân huệ. Điều này đã được thực hiện trong máu và nước mắt suốt cuộc Cải cách ruộng đất (1949-1956) trong đó địa chủ vừa mất đất vừa mất mạng, các giáo hội vừa mất đất vừa mất nhà, rồi bần cố nông chỉ được ruộng một thời gian ngắn trước khi giao lại cho hợp tác xã, nghĩa là giao lại cho nhà nước và đảng. Sau khi chiếm được miền Nam năm 1975, đảng lại dùng nhiều cách để chiếm thêm đất đai, cơ sở mà đặc biệt là các tôn giáo đang sở hữu vô số vô vàn. Nào là mượn (nhưng không bao giờ trả), nào là bắt kê khai (nhưng đảng hiểu là giao nộp, như trường hợp linh mục Vũ Ngọc Bích, quản lý đất giáo xứ Thái Hà và linh mục Nguyễn Tùng Cương, quản lý đất giáo phận Hà nội tháng 10-1961, rồi Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, “quản lý” đất giáo phận Huế tháng 11-1975…), nào là ngang nhiên đoạt lấy sau khi đã vu cáo và bắt nhốt gia chủ như trường hợp dòng thánh Phaolô Hà Nội năm 1960, dòng thánh Phaolô Vĩnh Long năm 1977… Rồi để hợp thức hóa vĩnh viễn những màn cướp bóc đất đai ấy, ngày 26-11-2003, đảng đã ra lệnh cho Quốc hội bù nhìn ban hành cái gọi là “Nghị quyết số 23/2003/QH11 về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 1 tháng 7 năm 1991”. Trong vụ việc Tòa Khâm sứ, xứ Thái Hà thời gian gần đây, nhà cầm quyền CSVN đã luôn lập luận theo nguyên tắc bất công vô đạo “Đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý”, được pháp chế hóa qua hai điều khoản 17&18 của Hiến pháp hiện hành và Nghị quyết 23 Quốc hội nói trên. Cùng ngày 26-11-2003, Quốc hội bù nhìn cũng thông qua Luật đất đai mà tới nay, dù qua nhiều lần sửa đổi, vẫn là một công cụ để giúp các thành viên của đảng ở Trung ương lẫn địa phương tước đoạt đất đai ruộng vườn nhà cửa của khoảng một triệu hộ nông dân và thị dân (theo báo cáo chính thức năm 2006 của nhà cầm quyền thì đã là 627.495 hộ gia đình, khoảng 950.000 lao động và 2,5 triệu nông dân) dưới những chiêu bài xây sân golf, quy hoạch đô thị, mở khu chế xuất, cung ứng cơ sở vật chất cho công ty nước ngoài… và địa chủ hóa đảng viên cán bộ!!! Đảng cũng tự cho mình là người sở hữu đất đai nước Việt nên đã không ngần ngại dâng cho ngoại bang nhiều phần tổ quốc dù thuộc dưới quyền mình hay không, như lời Hồ Chí Minh nói trong một cuộc họp hẹp của bộ chính trị trước khi Phạm Văn Đồng ra Công hàm bán nước ngày 14-09-1958: "Trung Quốc giúp chúng ta cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm ròng về đủ mọi phương diện. Họ viện trợ cho chúng ta từ cây kim, sợi chỉ, trang bị quân đội ta từ đầu tới chân: mũ Trung Quốc, quần áo Trung Quốc, giầy Trung Quốc... Bây giờ kháng chiến thắng lợi, họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, lẽ nào ta từ chối" (Trần Nhu, Tướng đi đêm). Theo lời Hòa Thượng Quảng Độ trong Tuyên cáo ngày 14-09-2008: đó là sự “chia chác phi pháp giữa hai đảng Cộng sản Trung-Việt”. Đến năm 1999 và 2000, CS còn cướp thêm đất đai của tổ tiên để dâng cho ngoại bang nữa. Ngoài ra còn phải kể đến sự độc quyền của đảng trong việc khai thác các tài nguyên quốc gia từ rừng tới biển, từ trên không trung xuống tới lòng đất qua các công ty quốc doanh mà thực chất là của đảng với lợi nhuận chủ yếu chạy vào túi đảng và các đảng viên quyền hành. Đây là một lối cướp bóc của nhân dân không hơn không kém! 2- Để hỗ trợ cho những hành vi cướp bóc nói trên, đảng đã tạo ra những hạng người chuyên tiếp tay và biện hộ cho mình. Đó là những nhân viên chính quyền sẵn sàng xài luật rừng, đưa chứng cứ giả, nêu lập luận ngụy tạo, dùng biện pháp hành chánh cưỡng bức; đó là những nhân viên công lực sẵn sàng xài vũ lực: hơi cay, chó dữ, dùi cui điện, lệnh tống giam, phòng thẩm vấn, trại lao tù; đó là những nhân viên truyền thông sẵn sàng cắt xén lời lẽ, bóp méo sự thực, vu vạ cáo gian, lừa gạt công luận, tuyên cáo trạng trước cả quan tòa; đó là những viên chức giáo dục sẵn sàng trương uy tín trí thức để ăn nói lật lọng hại người, đầu độc tâm hồn giới trẻ, ngăn cấm học sinh sinh viên tìm sự thật, xử dụng đoàn thanh niên như những tên côn đồ du đãng; đó là những tay chân trong hay ngoài nước sẵn sàng tung hứng theo đảng qua lối lu loa: đất đai do kẻ thù dân tộc cấp, tài sản giành lấy của tôn giáo bạn…; thậm chí đó là những kẻ nghèo khổ thất nghiệp sẵn sàng tới quấy rối, chửi bới, hành hung dân lành chỉ vì chút tiền thuê còm cõi… Đây là điều người ta nhận thấy quá rõ trong hai trường hợp tiêu biểu gần đây là vụ Tòa Khâm sứ và xứ Thái Hà. Dù những hạng người ấy bị sai khiến bằng tẩy não nhồi sọ khiến họ mê muội, bằng bạo lực hành chánh (dọa dẫm hay hứa hẹn) khiến họ phục tùng, thì đấy cũng là việc đánh cướp lương tri và lương tâm của con người cách trắng trợn. Và đối với toàn thể xã hội, đó là việc đánh cướp sự thực mà lẽ ra ai cũng phải được quyền lắng nghe, vui hưởng. Ấy là chưa nói đến việc đảng CS còn cướp bóc của nhân dân nhiều thứ khác như một nền hành chánh phục vụ (thay thế bằng kiểu cách tham nhũng), một nền giáo dục nhân bản (thay thế bằng chủ trương ngu dân), một môi trường sống trong lành (thay thế bằng chính sách gây ô nhiễm), một bầu khí tự do dân chủ (thay thế bằng đường lối độc tài hăm dọa)… 3- Chính vì thế mà trong bài Quan điểm gởi nhà cầm quyền và toàn thể xã hội hôm 25-09 mới đây, vị chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam đã viết: “1- Trước hết nếu luật về đất đai còn nhiều bất cập thì nên sửa đổi cho hoàn chỉnh. Việc sửa đổi này cần phải quan tâm đến quyền tư hữu của người dân như Tuyên ngôn quốc tế của Liên hiệp quốc về Nhân quyền đã khẳng định… Giới hữu trách phải tìm giải pháp triệt để là để người dân có quyền làm chủ tài sản, đất đai của họ… Đây sẽ là tiền đề cho việc giải quyết tận gốc những vụ khiếu kiện về đất đai và tài sản của người dân, đồng thời góp phần tích cực vào tự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển vững bền của đất nước. 2- Kế đến, đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người làm công tác truyền thông phải tôn trọng sự thật. Trong thực tế, đã có những thông tin bị bóp méo hoặc cắt xén, như trong trường hợp tranh chấp đất đai tại Tòa Khâm sứ cũ. Vì thế… những người làm công tác truyền thông đại chúng phải hết sức cẩn trọng khi đưa tin tức và hình ảnh, nhất là khi liên quan đến danh dự và uy tín của cá nhân cũng như tập thể… Chỉ khi tôn trọng sự thật, truyền thông mới thực sự hoàn thành chức năng của mình là thông tin và giáo dục nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 3- Cuối cùng, truyền thống văn hóa và đạo đức của dân Việt vốn nhấn mạnh đến tình tương thân tương ái và sự hài hòa trong xã hội. Tuy nhiên khi giải quyết những tranh chấp gần đây, đáng tiếc là đã có những hành vi sử dụng bạo lực, làm mất đi tương quan hài hòa trong cuộc sống. Vì thế, chúng tôi tha thiết mong ước mọi người hãy chấm dứt mọi hình thức bạo lực, trong hành động cũng như trong ngôn từ. Cũng không nên nhìn những tranh chấp này theo quan điểm chính trị và hình sự”. Những lời đó đã tố cáo một thực trạng đáng lo buồn và đáng phẫn nộ tại Việt Nam hôm nay. Đó là công lý bị đánh mất trong toàn bộ xã hội, không phải vì quần chúng man rợ bán khai, không phải vì tôn giáo biến chất thoái hóa, không phải vì ngoại bang xâm lược thống trị, nhưng chỉ vì sự hiện hữu của một chính đảng độc tài, một chính thể chuyên chế, một chính trị bá đạo. Nó đang ngang nhiên cướp bóc công lý và vì thế đẩy đất nước vào cảnh tụt hậu kinh tế, hỗn loạn xã hội, suy đồi giáo dục, lụn bại tinh thần, bất an tổ quốc, tiêu tùng quốc thể, khiến không một người dân nào còn có lòng yêu nước thương nòi, tự tôn dân tộc mà không cảm thấy nhục nhã, nhất là khi đi ra ngoại quốc! Ban Biên Tập (số 60, ngày 01-10-2008) |