“Mọi
người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới,
bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật,
hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác theo sự
lựa chọn của mình”
(Điều
19,2 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Liên Hiệp Quốc
biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982).
(Everyone
shall have the right to freedom of expression; this right shall include
freedom to seek, receive and impart information and ideas of all kinds,
regardless of frontiers, either orally, in writing or in print, in the
form of art, or through any other media of his choice.)
|
T I N T Ứ C
Vào lúc 8g sáng ngày 10-12-2008, chính ngày kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, hai nhân viên trẻ của Sở ngoại vụ thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã đến nhà linh mục Phan Văn Lợi tại số 16/46 Trẩn Phú, thành phố Huế, để đưa thư của Sở ngoại vụ, do ông Châu Đình Nguyên ký, thông báo cho linh mục cùng linh mục Nguyễn Hữu Giải là chiều cùng ngày, lúc 13g30, đoàn Phó Đại sứ Hoa Kỳ sẽ đến thăm hai vị tại tư gia linh mục Lợi. Thông báo cận giờ như thế thường là kiểu cách của nhà cầm quyền CSVN, cốt làm các nhà dân chủ không đủ giờ chuẩn bị tâm trí, lời lẽ và tài liệu để đón các nhân vật trong chính giới hay báo giới ngoại quốc đến thăm hỏi và làm việc. May thay, nhờ tòa đại sứ đã thông tri 4 ngày trước đó qua điện thoại nên hai vị đã kịp thời soạn miệng và viết những gì cần trình bày. Sau khi
trao đổi vài câu xã giao về sức khỏe, một nhân viên hỏi: Thế rồi linh mục Lợi lôi từ dưới bàn gương phòng khách tờ Tự do Ngôn luận số mới nhất (64, ra ngày 01-12-2008, kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn Nhân quyền). Một cách
máy móc, theo "tư duy xã hội chủ nghĩa", một nhân viên hỏi: Rồi mở
ra trang 04 của tờ báo, linh mục Lợi chỉ cho hai nhân viên điều 19
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền mà rằng: Sẵn đà,
linh mục Lợi "giảng" luôn một bài: Đợi linh
mục Lợi nói xong, hai nhân viên mới lên tiếng: Chiều lại, khoảng 14g, phái đoàn Hoa Kỳ tới, gồm có bà phó đại sứ Virginia E. Palmer, ông Tùy viên chính trị Christian Marchant -vị nào cũng to cao gần 2 mét là ít (xin xem hình)- và anh thông dịch viên của tòa đại sứ tên là Đức. Dẫn đường là hai nhân viên của Sở ngoại vụ. Cả hai linh mục ra sân đón chào. Sau khi vào nhà, phân ngôi chủ khách (hai nhân viên sở tự động rút xuống nhà dưới), 5 người bắt đầu trao đổi. Vì lễ thức ngoại giao, chúng tôi không thể tường thuật chi tiết nội dung buổi làm việc. Chỉ biết rằng phái đoàn đặt nhiều câu hỏi chính chung quanh vấn đề nhân quyền mà cụ thể có liên quan đến đất đai cơ sở của Giáo hội đang bị tranh chấp ở nhiều nơi hiện nay (như tại Tòa Khâm sứ, xứ Thái Hà, Hà Nội; Giáo hoàng học viện Đà Lạt; giáo xứ An Bằng và dòng Mến Thánh Giá tại Huế...). Hai vị linh mục luôn miệng khẳng định: gốc rễ của vấn đề chính là nguyên tắc của chế độ CSVN: không cho người dân có quyền sở hữu đất đai. Nguyên tắc này đã được đưa vào Hiến pháp, Luật đất đai 2003 và Nghị quyết 23 năm 2003 của Quốc hội CS. Hai vị cho rằng các vụ việc xảy ra ở những nơi vừa kể không phải chỉ là chuyện tranh chấp giữa hai tập thể (một bên là nhà nước, một bên là giáo hội) về một mảnh đất, một cơ sở, nhưng là chuyện tranh chấp về một nguyên tắc căn bản của chế độ CS: đất đai do nhà nước quản lý, chủ sở hữu, còn người dân (cá nhân lẫn tập thể) chỉ có quyền sử dụng và "quyền" xin nhà nước cấp cho. Thành ra các vụ việc không chỉ mang tính dân sự, tính hình sự, nhưng là tính chính trị, động đến những nhân quyền và dân quyền cơ bản... Ngoài ra hai linh mục cũng trình bày thêm các khía cạnh khác của tự do nhân quyền mà nhà nước CSVN đang chà đạp (qua Bản trình bày 2 trang bằng tiếng Anh trao ngay cho phái đoàn trong buổi làm việc; xin xem bản tiếng Việt và tiếng Anh sau đây). Phía Hoa Kỳ đã ghi nhận ý kiến của hai nhà tu hành tranh đấu. Cuộc gặp kéo dài tới 15g15. Trước khi từ giã, hai linh mục đã tặng cho phái đoàn một kỷ vật của Cố đô Huế, hai số báo Tự do Ngôn luận mới nhất (63+64) và tập sách nhỏ mà Khối 8406 đã phát hành và biếu tặng đồng bào tại VN (trong đó có tài liệu "Từ độc tài đến dân chủ" của Gene Sharp và "Dân chủ là gì?" của tòa đại sứ HK tại VN). Hai linh mục cũng không quên tặng bản trình bày cho hai nhân viên sở ngoại vụ !!! Nhóm
Phóng viên FNA tường trình từ Huế, 17g ngày 11-12-2008 Tự do tại Việt Nam Tại Việt Nam ngày nay, các nhân quyền và dân quyền cơ bản được liệt kê đầy đủ trong Hiến pháp. Nhưng chúng hầu hết đều được định nghĩa cách mơ hồ hay thiếu sót, đều bị giới hạn hay hủy bỏ bởi các đạo luật, sắc lệnh, nghị quyết.... Nói cách khác, chúng không hiện hữu trong thực tế cho những công dân thực sự. 1-
Chúng tôi không có tự do ngôn luận, thông tin và báo chí. Chính quyền cũng nắm độc quyền về giáo dục, về biên soạn giáo khoa. Mọi loại trường hầu hết đều thuộc nhà nước. Các Giáo hội chỉ có thể điều hành các trường mẫu giáo với những tín đồ của họ mà thôi. Qua việc nhồi sọ chúng tôi bằng học thuyết biện chứng duy vật (tức chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mácxít, độc dược của loài người), đảng cộng sản đã gây nên vô vàn thiệt hại và tai họa cho trí não tâm hồn của nhân dân chúng tôi, đặc biệt là giới trẻ. Không ai có thể có tư tưởng hay quan điểm "phản động" mà không bị sách nhiễu, hăm dọa, đàn áp, thậm chí bỏ tù. Không ai có thể "tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, bất kể biên giới quốc gia" (Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, khoản 19; Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, khoản 19). Vì thế, với nhiều người khác, 4 linh mục công giáo -cha Chân Tín, cha Nguyễn Văn Lý và hai chúng tôi- đang tranh đấu để đòi lại quyền giáo dục. Ngày 20-2-2006, chúng tôi đã làm một lời kêu gọi nhà cầm quyền tôn trọng tự do ngôn luận và thông tin. Đồng thời chúng tôi cũng đưa ra một lời tuyên bố về quyền ấy, mà rồi đã thành một kiến nghị mở rộng khắp hoàn cầu với hơn 1000 chữ ký. Và để khẳng định quyền này, ngày 15-04-2006, chúng tôi bắt đầu phổ biến một bán nguyệt san mang tên Tự do Ngôn luận mà không xin phép nhà cầm quyền. Dĩ nhiên tờ tạp chí này -còn tồn tại cho tới hôm nay (số mới nhất, 64, ra ngày 01-12-2008)- đã được phân phối trên giấy, miễn phí và chui ngầm khắp cả Việt Nam. 2-
Chúng tôi không có tự do hội họp và lập hội. Tại VN không có công đoàn tự do, nghiệp đoàn độc lập! Các cuộc đình công mới đây của khoảng 100.000 công nhân chứng minh điều đó. Các thành viên công đoàn tại VN thật ra là tai mắt của đảng. Trong một Đề nghị 8 điểm tung lên mạng ngày 18-2-2006, nhiều đại diện công nhân VN đã yêu cầu hủy bỏ công đoàn do cộng sản dựng lên. Phong trào này -với những thủ lãnh đang ở tù- đáng được mọi người thiện chí và các chính phủ dân chủ ủng hộ. 3-
Chúng tôi không có tự do bầu cử. Vì thế, chúng tôi đang đấu tranh đòi hủy bỏ điều 4 Hiến pháp VN, vì điều khoản này ban quyền tuyệt đối và vĩnh viễn cho đảng CS. Chúng tôi đang đấu tranh vạch trần bộ mặt của Hồ Chí Minh, nguồn đau khổ và nền tảng cuối cùng mà nhà cầm quyền Việt Nam dựa vào để duy trì quyền lực của họ. Chúng tôi đang tổ chức một chiến dịch tẩy chay bầu cử độc đảng và đòi hỏi bầu cử đa đảng. Ngày 17-10-2005, chúng tôi đã ra lời kêu gọi về chuyện này. Mục đích tối hậu là giải thể chế độ cộng sản độc tài, nguyên nhân tụt hậu và thoái hóa của đất nước chúng tôi. Ngày 20-05-2007, cả hai chúng tôi đã tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội bằng cách từ khước bỏ phiếu. 4-
Chúng tôi không có tự do tôn giáo. - sự tự do thành lập tôn giáo, giáo hội hay giáo đoàn, không với sự cho phép hay chuẩn thuận mà chỉ với sự thừa nhận của nhà cầm quyền, vốn phải thừa nhận tôn giáo hay giáo hội đó sau khi họ đã đăng ký. - sự độc lập của các giáo hội trong việc thiết lập các cơ cấu của mình; tuyển mộ huấn luyện nhân sự của mình; truyền chức, tấn phong, thuyên chuyển giáo sĩ của mình; bổ nhiệm hay đề cử giáo phẩm và lãnh đạo của mình. - quyền tư hữu về đất đai. (Trong thực tế, mọi cá nhân và tập thể, như các giáo hội chẳng hạn, chỉ có quyền sử dụng đối với đất đai. Khi độc chiếm quyền tư hữu đất đai, nhà cầm quyền hy vọng đặt mọi công dân và mọi cộng đoàn dưới cái ách của mình, duy trì cơ chế bất công “xin-cho”. Đó chính là nguyên nhân của nhiều cuộc khiếu kiện hiện thời (khoảng một triệu trường hợp), của nhiều tranh chấp giữa nhà cầm quyền với nhân dân, với các giáo hội về đất đai). - việc truyền bá tôn giáo đến nhân dân, việc tham gia của các giáo hội vào đời sống xã hội -bằng cách thành lập và điều hành các trường học đủ mọi cấp, từ nhà trẻ đến đại học, bằng cách sở hữu và điều hành báo chí, phát thanh, truyền hình, trang mạng, nhà xuất bản riêng, bằng cách thành lập và điều hành các cơ sở hoạt động từ thiện, chẳng hạn trạm xá và bệnh viện. Tiếc thay, các giáo hội tại VN không được có những thứ tự do này. Vì thế, chúng tôi đang đấu tranh đòi tiêu hủy Pháp lệnh Tôn giáo và Tín ngưỡng ra đời tháng 11-2004 và Nghị định áp dụng Pháp lệnh ra đời tháng 3-2005. Với việc kiểm soát các thực hành tôn giáo như thế -bằng cách thiết lập những hướng dẫn để các giáo phái đăng ký các hoạt động của mình và xin được sự thừa nhận chính thức- các văn bản pháp luật này, đối với chúng tôi, làm thành một biện pháp để đàn áp tôn giáo bằng pháp luật. Chúng dễ dàng bất hợp pháp hóa mọi hoạt động tôn giáo của chúng tôi và làm biến thoái dần dần tôn giáo của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng Nhân dân, Quốc hội và Chính phủ Hoa Kỳ, nổi tiếng khắp thế giới như xứ sở của tự do dân chủ và vì tinh thần tự do dân chủ, sẽ hỗ trợ chính nghĩa của chúng tôi. Xin cảm ơn. Huế,
ngày 10-12-2008, Ngày Nhân quyền Quốc tế Freedom in Viet Nam In Viet Nam nowadays, basic human and civil rights are listed sufficiently in the Constitution. But they are almost defined vaguely or inadequately, restricted or rescinded by statutes, edicts, decrees and resolutions… In other words, they don't exist in real life for the real citizens. 1-
We haven’t had freedom of speech, information or press. The government holds the monopoly in educating, and in compiling the textbooks. Almost all different kinds of schools belong to the state. The Churches are merely able to manage the nurseries with their own beliefs. By stuffing ours heads with materialistic dialectics (i.e. the socialism, Marxism, poison of humanity), the communist party has caused a lot of damage and disaster to the minds and souls of our people, especially the young. Nobody can hold "reactionary" thinking or opinions without interference, threat, repression, and even imprisonment. Nobody can "seek, receive and impart information and ideas of any kind, regardless of frontiers, either orally, in writing or print, in the form of art, or through any other media of his choice" (Universal Declaration of Human Rights, art. 19. International Covenant on Civil and Political Right, art. 19). Therefore, with many others, we the four catholic priests, father Chan Tin, father Van Ly and ourselves, are fighting to claim back the right of education. On February 20, 2006, we made a statement urging the government to respect the freedom of speech and information. Simultaneously, we made a declaration for this right, which became a world-wide petition with over 1000 signatures. And to affirm that right, on April 15, 2006 we began to publish a bimonthly named Freedom of Speech without the permission of the government. Of course, this magazine that lasts until now (the latest number, 64, dated December 01, 2008)- is distributed on paper, fee-free and underground all over Viet Nam. 2-
We haven't had freedom of assembly and association. In VN there are no free labor union and no independent trade syndicate! The recent strikes of about 100,000 workers have proved that. The labor-unionists in VN are actually the watcher-aides of the party. In a 8-points proposal posted on the internet in February 18, 2006, many representatives of the Vietnamese workers, asked for the dissolution of the labor syndicate set up by the communists. This movement -with its leaders now in prison- is worthy of support by all good-will men and all democratic governments. 3-
We haven't had freedom of election Therefore, we are fighting to terminate the fourth article of the Vietnamese Constitution, because this article gives the absolute and eternal power to the communist party. We are fighting to unmask the real face of Ho Chi Minh, who is the primary source of suffering and disaster for our people and the last basis on which the Vietnamese government relies to continue their power. We are organizing and campaigning to boycott the one-party election and to claim for the poly-party election. On October 17, 2005, we made an appeal for this. The ultimate purpose is to dissolve the communist and despotic regime, a cause of regression and degradation for our country. On May 20, 2007, both us, we boycotted the election of the National Assembly by refusing to vote. 4-
We haven't had freedom of religion - the liberty of founding the religion, church or congregation, without the permission or the sanction but only with the recognition of the government, which must recognize this religion or church after its registration. - the independence of the churches to establish their structures, to recruit, to train their personnel, to ordain, to promote, to transfer their clerics, to designate, or to appoint their hierarchies and leaders. - the ownership of the land. (In reality, all individuals and collectives, such as churches, have only the right of use towards the land. In monopolizing the ownership of the land, the government hope to put all citizens and communities under its yoke, maintaining the unjust mechanism “demand-grant”. That is the cause of many present complaints (about million cases), of many conflicts between the government and the people, the churches about the lands). - the promulgation of the religion to the people, the participation of the churches in the life of the society -by establishing and managing the schools of all grade levels, from nurseries to universities, by owning and running press, radio, television, website, publication house, and by founding and managing centers of charitable activities, such as medical clinics and hospitals. Regretfully, the churches in VN don’t have these liberties. Therefore, we are fighting for the termination of the Ordinance on Religion and Belief issued in November 2004 and the Decree of Implementation of this Ordinance issued in March 2005. With this control on religious practices - by establishing guidelines for religious denominations to register their activities and seek official recognition - to us, they are legal documents constituting a measure to repress the religion by law. They easily make all our religious activities illegal and degenerate our religion gradually. We hope that the People, the Parliament and the Government of the Unites States, well- known world-wide as the country and for the love of freedom and democracy, will support our cause. Thank you. Hue,
December 10, 2008, Human Rights Day, |