“Mọi
người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới,
bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật,
hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác theo sự
lựa chọn của mình”
(Điều
19,2 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Liên Hiệp Quốc
biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982).
(Everyone
shall have the right to freedom of expression; this right shall include
freedom to seek, receive and impart information and ideas of all kinds,
regardless of frontiers, either orally, in writing or in print, in the
form of art, or through any other media of his choice.)
|
T À I L I Ệ U
Với trách nhiệm của công dân Nước Việt và công dân Nước Trời, với lương tâm của người tu hành đang sống giữa lòng Tổ quốc Dân tộc, chúng tôi, những linh mục Công giáo nguyện theo tinh thần của Cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, vị tử đạo dưới chế độ Cộng sản, gọi tắt là Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, long trọng tuyên cáo trước Quốc dân Đồng bào về vụ việc chấn động lòng dân kể từ hôm 2-12-2007, khi nhà cầm quyền Trung Cộng chính thức công bố biến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thành huyện Tam Sa, trực thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Quốc. Trước hết, Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền chúng tôi nhận định rằng: 1- Do mù quáng chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản quốc tế đại đồng, đảng và nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh, với tâm thức nô lệ, trước hết đã một lòng suy tôn, thần phục và khiếp sợ đảng Cộng sản đàn anh Trung quốc cũng như lãnh tụ của đảng này là Mao Trạch Đông, xem ông ta như kẻ không thể sai lầm; thứ đến đã coi thường sự toàn vẹn lãnh thổ, xóa nhòa các biên cương tổ quốc, chẳng lưu tâm đến mộng bá quyền ngàn năm của Bắc triều Đại Hán. Đây là tinh thần vong bản dẫn đến thảm trạng vong quốc. 2- Do mưu tính thực hiện ý đồ bành trướng Đế quốc đỏ qua việc cưỡng chiếm cho được Việt Nam Cộng hòa, các lãnh đạo CSVN đã ra công hàm ngày 14-09-1958, công nhận lời tuyên bố của Trung Quốc mười hôm trước đó về chủ quyền của họ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, để được đảng CSTQ cung cấp lương thực, vũ khí, quân dụng hầu tiến đánh miền Nam. Đây là việc bán đất biển tổ tiên để tậu phương tiện bành trướng một chế độ phi nhân bản, phản dân tộc. 3- Trượt dài trên con đường bán nước để giữ ghế, thần phục Trung Quốc để mua lấy sự bảo trợ, đảng CSVN đã tự tiện ký Hiệp ước lãnh thổ ngày 30-12-1999 và Hiệp ước lãnh hải ngày 25-12-2000 với Trung Quốc, không cần bàn hỏi với quốc dân đồng bào, khiến cho đất nước mất đi mười mấy ngàn cây số vuông mà bao anh hùng, chiến sĩ Dân tộc qua mấy ngàn năm đã gầy dựng và bảo vệ bằng mồ hôi, xương máu. Đây là thái độ chà đạp sự hy sinh của tiền nhân, vô ơn với công đức của tiên tổ và khinh mạn ý kiến của toàn thể dân tộc. 4- Cũng do tâm địa bảo vệ chủ nghĩa Xã hội và bành trướng chế độ Cộng sản mà không lo bảo vệ an sinh Dân tộc và giữ gìn bờ cõi Quê hương, chỉ lo mất Đảng mất ghế mà không lo mất Nước mất Dân, nhà cầm quyền CSVN từ đó đã chẳng còn bận tâm bảo vệ sinh kế và sinh mạng của cư dân vùng biên giới phía Bắc cũng như ngư dân vùng duyên hải phía Đông, chẳng dám phản đối việc Trung Quốc xâm phạm tài nguyên trên khu vực biển của đất nước, mù quáng chạy theo Trung Quốc trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, luật pháp, xã hội…, nhắm mắt tuân hành mệnh lệnh chủ nhân phương Bắc là cấm cản các cuộc biểu tình trong nước đòi lại lãnh thổ. Đây là cách hành xử nhu nhược, nô lệ, vô trách nhiệm, đánh mất uy lực quốc phòng, làm tan uy tín quốc gia. Do đó, Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền chúng tôi lên tiếng kêu gọi: 1- Đảng CSVN cần ý thức rằng toàn thể đảng và toàn bộ công cụ của đảng (quốc hội, tòa án, chính quyền, công an, quân đội, báo chí, tôn giáo quốc doanh) không đủ uy dũng trên mặt trận quốc phòng và thế lực trên mặt trận chính trị ngoại giao để bảo vệ Tổ quốc giang sơn, mà cần tới sự chung sức chung lòng của toàn thể 85 triệu Dân Việt trong nước và hơn 3 triệu Người Việt hải ngoại không phân biệt chính kiến, tôn giáo, chủng tộc. 2- Đảng CSVN do đó cần chấm dứt ngay việc sách nhiễu, quản chế, giam cầm các nhà đấu tranh dân chủ và tu hành đối kháng; trả lại tài sản, quyền lợi và danh dự cho thị dân bị cướp nhà, nông dân bị cướp đất, công nhân bị cướp lương; từ bỏ dự tính lường gạt công sức và ý đồ thao túng cộng đoàn của Người Việt hải ngoại; thôi ngăn cản, hăm dọa, đàn áp các học sinh, sinh viên, trí thức, dân oan, văn nghệ sĩ, các chiến sĩ dân chủ… biểu tình đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa suốt mấy tuần lễ vừa qua, kể từ Chúa nhật 09-12-2007 và trong những tháng ngày sắp tới. 3- Đảng CSVN cần hủy bỏ ngay điều 4 cũng như nhiều điều mâu thuẫn phi lý trong Hiến pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia cứu quốc của toàn dân, gồm mọi thành phần dân tộc, mọi cộng đoàn tôn giáo, mọi đảng phái chính trị, mọi tổ chức công dân trong lẫn ngoài nước. Tiếp đó là triệu tập Hội nghị Diên Hồng mới để đảng tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa ngoại lai, chế độ sai lầm, tạ lỗi và hòa giải cùng dân tộc, trao quyền lãnh đạo cho toàn dân trong một thể chế dân chủ tam quyền phân lập và đa đảng đa nguyên. Tân chính thể và tân chính quyền này sẽ lập tức tuyên bố hủy bỏ mọi văn kiện sai trái về biên giới và lãnh thổ, đệ trình vụ việc ra Liên Hiệp Quốc, Tòa án Quốc tế đồng thời động viên mọi lực lượng giữ gìn bờ cõi. 4- Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước nhanh chóng kết hợp thành một khối để bảo vệ Giang sơn và Giống nòi. Mọi giới, mọi thành phần trong nước, từ tu hành trí thức, văn nhân nghệ sĩ, đến công nhân nông dân, sinh viên học sinh, già trẻ lớn bé…. hãy nhất tề đứng lên đòi hỏi Quyền con người, Quyền công dân, Quyền bảo quốc. Trước mắt là liên tục biểu tình mọi nơi. Đồng bào hải ngoại xin một lòng hỗ trợ cuộc đấu tranh tại quốc nội, xin cùng nhau vận động quốc tế để họ làm sáng tỏ và hậu thuẫn chủ quyền đất nước trên Hoàng Sa, Trường Sa, trên phần Biển Đông và các phần lãnh thổ thuộc Việt Nam theo hiệp định Bắc Kinh năm 1885. Lịch sử mấy ngàn năm của Đất nước đã cho thấy khi toàn dân cùng đứng lên chống nội thù lẫn ngoại xâm, thì lãnh thổ được toàn vẹn, dân tộc được độc lập, văn hóa được bảo tồn, chủ quyền quốc gia được tôn trọng và uy lực của tổ quốc được nâng cao. Đây là một kinh nghiệm xương máu, đã trở thành bài học sáng ngời và một quy luật đúng đắn cho việc bảo toàn sinh mệnh của dân tộc, việc duy trì sự tồn tại của đất nước và việc thăng tiến cuộc sống của nhân dân. Và nay là thời điểm để toàn thể dân tộc tiếp tục thực hành bài học và áp dụng quy luật ấy. Sơn hà nguy biến! Toàn dân hay chăng? Ngoại thù xâm lăng! Lẽ nào bất động?
................................................................................................................................. Tâm
thư thứ hai gởi các Linh mục quốc nội Kính thưa Quý Cha, Cách đây khá lâu (28-10-2001), hai anh em chúng con, linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải và Phêrô Phan Văn Lợi, Tổng giáo phận Huế, đã gởi đến Quý Cha một lá thư, trình bày những tâm tư ước vọng của chúng con trước tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, nhân vụ việc nhà nước Cộng sản xử án cha Nguyễn Văn Lý, một người anh em của chúng ta, 15 năm tù và 5 năm quản chế vì tranh đấu bất bạo động cho tự do con Chúa và tự do con người. Nay chúng con xin được tiếp tục tâm sự với Quý Cha về những vấn đề nổi cộm, gây nhiều bức xúc và mang tính chất vấn đối với hàng ngũ linh mục chúng ta tại Việt Nam trong lúc này. Chúng con muốn nói đến những hình thức chà đạp đáng kinh sợ đã và đang xảy ra trên đất nước thân yêu. 1-
Chà đạp con người. Trước hết, trên phương diện tư tưởng, Cộng sản vẫn tiếp tục nhồi sọ toàn dân Việt Nam, đặc biệt học sinh sinh viên, cái học thuyết sai lầm và độc hại là chủ nghĩa Mác-xít, nhằm xây “nền tảng tinh thần” cho chế độ, đồng thời ngăn cấm mọi học thuyết khác, công trình tinh hoa tư tưởng của nhân loại. Môn “chủ nghĩa xã hội” vẫn là môn chiếm nhiều tiết học, hệ số điểm cao và đôi khi là tiêu chuẩn chính trong nhà trường. Đây là một sự bức bách trắng trợn đối với tâm trí con người, nhất là giới trẻ. Vì độc tôn thống trị như thế, học thuyết Mác-xít ngăn chận mọi con đường dẫn đến sự thật và phát triển; vì chủ trương đấu tranh giữa con người, nó cổ võ hận thù và tiêu diệt tình thương từ trong nhân tâm. Trên phương diện xã hội, Cộng sản tiếp tục đè lên toàn thể dân Việt một ách thống trị ngày càng nặng nề, không thể chịu nổi (thể chế hoá qua điều 4 Hiến pháp). Ách thống trị này đã được thực thi bằng vũ lực tàn bạo, qua nhiều biến cố đau thương, qua bao cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Chẳng ai được nghĩ gì, nói gì, làm gì ngoài khuôn khổ của đảng, không có phép của đảng. Đảng tự đặt mình trên hiến pháp, pháp luật và luôn hành xử vì quyền lợi riêng tư. Nhân dân chẳng có một cơ chế độc lập để giám sát, kềm hãm, ngăn chận khi cần bàn tay của đảng. Những ai lên tiếng đòi hỏi sự thật, kêu gào công lý, bênh vực nhân quyền đều bị đàn áp thô bạo (như trung tướng Trần Độ, giáo sư Hoàng Minh Chính, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, luật sư Lê Chí Quang, thi sĩ Bùi Minh Quốc, văn sĩ Dương Thu Hương, đồng bào sắc tộc Tây Nguyên v.v...) Để duy trì quyền lực độc tài này, đảng trọn vẹn chi phối lập pháp, tư pháp, hành pháp và sử dụng những cơ chế này lẫn quân đội và công an như công cụ. Bao vụ tác oai lạm quyền, quản chế vô luật (nhờ nghị định quái đản 31/CP), giam cầm trái phép, xử án bất công (điển hình qua các vụ Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, Xét lại chống đảng, Xử án cha Nguyễn Văn Lý...) đã và đang biến Việt Nam thành một nhà tù vĩ đại, khiến người dân sống trong hoang mang lo sợ vì nạn khủng bố nhà nước. Đúng lý, thắng lý bao giờ cũng là đảng!?! Nền kinh tế thị trường “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” thực chất chỉ làm giàu cho cán bộ đảng viên và gia tăng phương tiện vật chất cho đảng, để đảng có thể thống trị lâu dài. Cộng sản còn bắt toàn dân Việt Nam ngày đêm phải hứng chịu một nền thông tin không nhắm phổ biến sự thật mà chỉ để đề cao củng cố đảng và triệt hạ bất cứ cái gì khác. Gian dối, giấu che, ngụy biện được vận dụng ồ ạt trên các phương tiện truyền thông vốn hoàn toàn nằm trong tay Nhà nước. Nhân dân không thể nói lên tiếng nói đích thực của mình, mà tất cả đều phải ở dưới sự dẫn dắt của đảng về mặt tư tưởng và tình cảm. Sự gian dối còn len lỏi vào mọi lãnh vực cuộc sống, đầu độc mọi tương quan xã hội, làm hư hỏng nhiều lương tâm và nhiều công trình. Tính chuyện lâu dài, “bách niên chi kế”, đảng đang nắn đúc thế hệ trẻ theo một quan điểm giáo dục vừa phiến diện về nội dung, vừa trống rỗng về tinh thần, vừa tầm thường về mục tiêu, với những mẫu gương thần tượng giả tạo. Đức dục, trí dục ngày càng sa sút. Gian lận bài vở, giả mạo bằng cấp ngày càng nhan nhản. Những “con người máy” thiếu chiều sâu tâm linh đang được sản xuất hàng loạt trên đất nước. Mọi cố gắng uốn nắn tâm hồn người trẻ của các tôn giáo đều gặp thất bại, vô hiệu, do chỗ nhà nước duy vật vô thần độc quyền giáo dục. Thêm nữa, việc học hành càng lúc càng trở thành gánh nặng không thể chịu nổi cho vô số gia đình. Biết bao thế hệ, khối óc, tâm hồn đã bị thui chột hay hư hỏng. Văn hóa dân tộc chẳng biết có còn hay không? Bao giá trị ngàn đời của hồn Việt như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng đang mai một dần. 2-
Chà đạp tôn giáo. Những nới rộng cho các giáo hội trong thời gian gần đây (cho phép xây nơi thờ tự, tổ chức hành hương, tu học nước ngoài, mở trường mẫu giáo...) đều là phụ tùy, ngoại diện, vả lại xuất phát từ tình thế bắt buộc, do đấu tranh của tôn giáo, chứ không phải do thiện chí của chính quyền CS. Mục tiêu công cụ hóa các giáo hội vẫn không hề thay đổi. Cộng sản quyết tâm chia rẽ nội bộ tôn giáo -để dễ thống trị- bằng cách lập các “giáo hội quốc doanh” bên cạnh các giáo hội truyền thống. Không tạo được thành phần quốc doanh thì cộng sản thô bạo xen mình vào việc tuyển mộ, huấn luyện, tấn phong, bổ nhiệm chức sắc lớn nhỏ của các giáo hội, nhắm tạo nên một hàng lãnh đạo tôn giáo ngoan ngoãn tuân lệnh nhà nước, cung cúc thần phục đảng, hay ít nhất chẳng hé răng trước những sai trái của kẻ cầm quyền. Cộng sản nắm đầu vào lẫn đầu ra đồng thời ấn định số lượng lẫn chất lượng như thế, trông mong gì Giáo hội chúng ta có những mục tử như lòng Chúa mong đợi, như dân Chúa mơ ước? Mọi tôn giáo đã và đang bị chiếm đoạt nhiều cơ sở hành đạo. Có cơ sở bị nhà nước rắp tâm biến thành chỗ du hí ăn chơi (trung tâm Liễu Quán, đan viện Thiên An tại Huế, tòa Khâm sứ ở Hà Nội...). Hơn thế nữa, mọi tôn giáo đều không được quyền sở hữu các phương tiện truyền bá giáo lý, phương tiện phục vụ xã hội (như cơ quan thông tin và xuất bản tài liệu; cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế, từ thiện quy mô). Việc cho phép Hội Đồng Giám Mục ra Bản tin (sau nhiều năm dài xin phép, với định kỳ 2 tháng 1 lần, độ dài 50 trang, nội dung thông báo các hoạt động của Giáo hội “phù hợp với lợi ích đất nước và giáo dân”, số lượng 100 bản cho 25 giáo phận và 8 triệu tín hữu) quả là một sự mạ lỵ và ngạo mạn chưa từng thấy. Các sinh hoạt nội bộ tôn giáo, nhất là khi quy tụ đông người, đều bị công an dòm ngó, kiểm soát, bắt phải xin phép mà cho hay không tùy thích, có khi còn bị đàn áp, cản trở. Và phải sinh hoạt “phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân” (Hiến pháp ch. 2, đ. 10), nghĩa là không được phương hại đến uy tín và quyền lực của đảng. Cộng sản chẳng bao giờ muốn các giáo hội -vốn có vai trò giáo dục lương tâm, bảo vệ luân lý- ảnh hưởng lên nhân quần xã hội hơn chính mình. Đảng còn tìm cách thu phục hay khống chế các chức sắc tôn giáo bằng hứa hẹn hay hăm dọa, bổng lộc hay bẫy sập, nhằm triệt tiêu vai trò chứng nhân sự thật và lãnh đạo tinh thần của tôn giáo. Tất cả những ai trong tôn giáo lên tiếng bênh vực quyền công dân và quyền tín hữu đều bị ghép vào tội chính trị, bị chụp mũ phản động, phạm pháp, phá hoại đoàn kết và bị hăm dọa, quản chế, giam cầm hay thủ tiêu (Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đạo sư Lê Quang Liêm, Linh mục Nguyễn Văn Lý...). Dù các giáo hội đều cố gắng đối thoại với nhà nước, nhưng cộng sản chẳng bao giờ chấp nhận đối thoại. Kinh nghiệm cho thấy họ luôn tìm mưu kế mặc cả với những đe dọa khủng bố mà họ sẵn sàng xử dụng để bắt tôn giáo phải nhượng bộ. Nói
tóm, làm gì có chuyện nhà nước cộng sản đang ban phát cho các tôn
giáo nói chung và Công giáo nói riêng nhiều điều tốt đẹp và những
điều tốt đẹp này đang được thực thi ?!? 3-
Chà đạp dân tộc Nếu theo dõi các phương tiện truyền thông trong và ngoài nước thời gian gần đây (tiêu biểu là bài phân tích nhận định của đài phát thanh Vatican được mạng lưới VietCatholic đăng lại ngày 17/2/2002), chúng ta thấy việc chà đạp dân tộc đã bị phơi bày qua vụ dâng đất biển tổ quốc cho ngoại bang bằng hai hiệp định lãnh thổ và lãnh hải ký giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 30-12-1999 rồi ngày 25-12-2000. Qua
tiết lộ & nghiên cứu của nhiều học giả, qua đòi hỏi bạch hóa của
nhân dân, qua tuyên cáo lên án của bao tổ chức đoàn thể, qua thái
độ lén lút ký kết, giấu giếm văn kiện, trả lời lấp liếm của chính
quyền, qua việc quản chế, bắt giữ những người phanh phui hay tìm hiểu
sự việc (luật sư Lê Chí Quang, thi sĩ Bùi Minh Quốc, học giả Trần
Khuê...), chúng ta nhận thấy Cộng sản (đặc biệt hàng lãnh đạo cao
nhất) đã và đang phạm một tội ác tầy trời đối với dân tộc. Hành động đó phát xuất từ não trạng khiếp nhược ngoại bang, ve vãn ngoại lực nhằm mưu cầu tư lợi, củng cố tư quyền; phát xuất từ thái độ khinh bỉ công lao dựng nước giữ nước của tổ tiên, coi rẻ xương máu của bao anh hùng liệt sĩ, xem thường nội lực của dân tộc, cướp quyền làm chủ của nhân dân, bất chấp tiếng nói của đồng bào... Hành động đó làm tủi hổ vong linh tiên tổ, gây mối nhục cho giòng giống, đánh mất quyền tự quyết của dân tộc, khiến an ninh của tổ quốc bị lâm nguy, tạo thiệt hại kinh tế lâu dài cho đất nước, khơi lại hận thù giữa hai tộc Hoa Việt. Bởi lẽ Việt Nam bị thua thiệt quá lớn qua vụ này và không một con cháu Lạc Hồng nào -theo truyền thống bất khuất hào hùng- mà không muốn đòi lại những tấc đất gang biển thiêng liêng đã mất vào tay ngoại bang. Rõ ràng đó là một hành vi chà đạp dân tộc vô tiền khoáng hậu, không thể tha thứ, đáng bị nhân dân ngàn đời lên án nguyền rủa. * * * Vậy anh em linh mục chúng ta, những người được Thiên Chúa và Giáo hội giao phó nhiệm vụ chăm sóc cộng đoàn, chứng nhân của tình thương, ngôn sứ cho sự thật, những người được nhân quần xã hội coi như lãnh đạo tinh thần, chiến sĩ bảo vệ nhân phẩm, thầy dạy các giá trị nhân bản, mẫu gương về lòng ái quốc, chúng ta nên làm gì? Ở đây chúng ta nhớ lại lời Chúa: “Đừng cộng tác vào các việc của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra” (Ep 5,11), nhớ lại lời dạy mới đây của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II: “Giáo Hội mời gọi tất cả các phần tử của mình chân thành dấn thân để cho mọi người được tăng trưởng và xây dựng một xã hội đạo đức, liên đới và công bình hơn... Qua các thành viên của mình, Giáo Hội chỉ muốn góp phần chính đáng vào đời sống quốc gia, nhằm phục vụ toàn thể dân tộc và tình đoàn kết trong xã hội... tham gia tích cực vào việc phát triển nhân bản và tâm linh của con người... phục hồi và thăng hoa phẩm giá con người” (Huấn dụ ngày 22-1-2002 cho Giáo hội VN, số 5), nhớ lại lời của các giám mục Á châu: “Các nghị phụ Thượng Hội Đồng ý thức rất rõ những sự xâm phạm liên tục đối với các quyền con người tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại châu Á... Các ngài đã nói lên nhu cầu đặt ra cho toàn thể Dân Chúa tại châu Á là phải nhận thức rõ về một thách đố không thể tránh được, không thể từ khước được, đó là bênh vực các quyền con người, cũng như đẩy mạnh công lý và hòa bình” (Tông huấn Giáo hội tại Á châu số 33), nhớ lại lời các Giám mục chủ chăn: “Ta không nhìn những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục như những kẻ đứng ngoài cuộc, nhưng nhận đó là những vấn đề của ta và chủ động góp phần giải quyết... Ta không thể thờ ơ với những chương trình phát triển cũng như tình trạng nghèo đói và những tệ nạn xã hội, bởi vì ta là thành viên của cộng đồng dân tộc” (Thư Chung 2001, số 9). Là linh mục, chúng ta không làm chính trị, không tổ chức quân đội để lật đổ bạo quyền, không thành lập đảng phái để tranh đấu nghị trường, không mơ đến những vị trí quan trọng trong guồng máy quốc gia. Nhưng với tư cách ngôn sứ của sự thật, chứng nhân của tình thương, chúng ta chẳng có nghĩa vụ chỉ mặt các cơ chế tội ác, vạch trần những gian dối lừa gạt, tố cáo những bất công bạo hành chà đạp đối với con người, tôn giáo và dân tộc sao? Với tư cách lãnh đạo tinh thần, chúng ta chẳng có nghĩa vụ soi sáng tâm trí, giúp đàn chiên và đồng bào thấy rõ những mưu đồ đen tối, những thủ đoạn tàn độc, những đường lối tai hại cho quá khứ, hiện tại và tương lai của cộng đồng dân Việt chúng ta sao? Là những người đã chọn Chúa làm gia nghiệp, chúng ta chẳng có gì để lo mất mát. Là những người sống đời độc thân, chúng ta chẳng có gì để bị ràng buộc. Là những người đã nhận lãnh dư đầy ơn Thần khí, chúng ta chẳng có gì để phải sợ hãi. Vậy tại sao chúng ta không đồng thanh lên tiếng cách bất bạo động để góp phần bẻ gãy tròng áp bức đang đè trên cổ mọi con người, mọi tôn giáo cũng như toàn thể dân tộc? để đòi hỏi công lý và phẩm giá cho đất nước, cho giáo hội, cho mỗi cá nhân? Biết bao người giáo dân, người thế tục, bị ràng buộc bởi vô số liên hệ và trách nhiệm, vẫn đủ dũng khí để coi thường hiểm nguy hăm dọa, vẫn đủ can đảm để lên tiếng đòi lại quyền con người, quyền tôn giáo, quyền dân tộc. Chẳng lẽ chúng ta thua kém họ sao? “Với
Đấng đã chiến thắng sự chết, chúng ta có thể làm những điều bất khả
đạt” (Chiara Lubich). Nguyện xin Chúa Kitô Tử Nạn-Phục Sinh ban cho
chúng ta sức mạnh chấp nhận những gian khổ trong công cuộc đòi hỏi
các quyền của con người, của Giáo hội, của Dân tộc để Dân tộc, Giáo
hội và con người được phục hồi xứng với phẩm giá và đúng với bản chất.
TUYÊN
BỐ VỀ HIỆP ĐỊNH BIÊN GIỚI VIỆT–TRUNG Chúng tôi, những công dân Việt Nam trong nước và ngoài nước ký tên dưới đây, sử dụng quyền làm chủ đất nước của mình, tuyên bố phản đối Hiệp định biên giới Việt - Trung đã được ký kết một cách mờ ám với Trung Quốc vào tháng 12-1999. Khi Hiệp định này bị phát hiện, đã có nhiều đơn thư phản đối, nhiều kiến nghị gửi tới lãnh đạo Đảng cộng sản cầm quyền và Nhà nước, đòi phải công khai minh bạch cho toàn dân biết nội dung Hiệp định cùng diện tích đất đai bị mất cho Trung Quốc. Đã kiến nghị Quốc hội phải bàn bạc về Hiệp định này, nếu cần thì trưng cầu ý kiến toàn dân. Nhưng Quốc hội khoá X bất lực, không một ai dám chất vấn Chính phủ lấy một câu về Hiệp định biên giới. Đất nước là hương hoả của ông bà tổ tiên để lại, là của cải của toàn dân tộc. Các triều đại trong lịch sử Việt Nam không triều đại nào dám để mất đất đai. Vua Lê Thánh Tông đã nói một câu nổi tiếng còn ghi trong sử xanh: "Để mất dù một tấc đất biến cương là có trọng tội với Tổ quốc". Việc dựng cột mốc biên giới đầu tiên ở tỉnh Quảng Ninh cứ được tiến hành vào ngày 27-12-2001 đến nay đã được một năm tròn, bất chấp dư luận của nhân dân. Việc giải trình về Hiệp định biên giới trước Quốc hội khoá XI, đã qua hai kỳ họp, không thấy giải trình. Việc công bố nội dung Hiệp định biên giới trên báo chí cho toàn dân biết, cũng không thấy tiến hành. Sự mờ ám, khuất tất, về Hiệp định ký lén lút và thiệt thòi này càng nổi cộm trong lòng dân chúng. Một lần nữa, chúng tôi yêu cầu lãnh đạo Đảng cộng sản đang cầm quyền và Nhà nước :
Nhân dân Việt Nam trong nước và ngoài nước quyết giữ trọn lòng chung thuỷ sắt son với toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải mà tổ tiên đã hy sinh bao xương máu đắp xây từng tấc đất mới được như ngày nay. Nếu lãnh đạo Đảng cộng sản đang cầm quyền và Nhà nước tự thừa nhận trên lời nói lâu nay là công bộc của dân, thì hãy biết nể dân, biết trọng dân, biết lắng nghe ý kiến của dân, mà xem xét lại Hiệp định biên giới. Còn toàn dân tộc Việt Nam không thừa nhận Hiệp định này. Ngày
27 tháng 12 năm 2002 |