“Mọi
người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới,
bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật,
hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác theo sự
lựa chọn của mình” (Điều
19,2 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Liên Hiệp Quốc
biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982). (Everyone
shall have the right to freedom of expression; this right shall include
freedom to seek, receive and impart information and ideas of all kinds,
regardless of frontiers, either orally, in writing or in print, in the
form of art, or through any other media of his choice.)
|
T
À I L I Ệ U
Năm
1975, 35 quốc gia Châu Âu và Châu Mỹ ký Thỏa Ước Helsinki, cam kết tôn
trọng những quyền tự do cơ bản của con người.
Qua năm sau, 1976, hai Công Ước Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc được phê chuẩn để có hiệu lực chấp hành . Năm 1977, tại Tiệp Khắc, Hiến Chương 77 dược công bố với trên 200 người ký tên tham gia. Hiến Chương kêu gọi chính phủ Tiệp Khắc - đã phê chuẩn hai Công Ước Quốc Tế Nhân Quyền và ký kết Thỏa Ước Helsinki – phải tôn trọng lời cam kết bằng cách thực sự thi hành nhân quyền cho người dân. Chính phủ Cộng Sản Tiệp phản ứng bằng cách bắt giữ 3 người chủ xướng. Với chủ trương không bạo động nhưng không nhượng bộ, mỗi năm có 3 đại biểu mới đứng ra chịu trách nhiệm phổ biến Hiến Chương để sẵn sàng ngồi tù. Đến năm 1989, có trên 1500 người đã tham gia Hiến Chương. Đồng thời với phong trào giải thể cộng sản tại Đông Âu, cuối năm 1989 cuộc Cách Mạng Tiệp Khắc thành công. Người chủ xướng Hiến Chương 77, Vaclav Havel được quốc dân bầu làm Tổng Thống Tiệp Khắc đầu tiên trong kỷ nguyên hậu cộng sản. Ngày 8-4-2006, 118 Nhà Tranh Đấu Dân Chủ tại quốc nội đã công bố bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ 2006 cho Việt Nam. Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền tại hải ngoại hoan nghênh và yểm trợ phong trào đấu tranh đòi thiết lập chế độ dân chủ pháp trị, đa nguyên đa đảng, thay thế chế độ độc tài đảng trị. Muốn xây dựng tự do dân chủ cho Việt Nam đường lối hữu hiệu nhất là đấu tranh cho nhân quyền. Vì nhân quyền là mục tiêu chung của những người Việt Nam yêu nước, là mẫu số chung để kết hợp lòng người. Hai mục tiêu chiến lược là truyền bá nhân quyền và đấu tranh đòi thực thi nhân quyền. Muốn phát động đấu tranh phải nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí. Để nâng cao dân trí trước kia chúng ta có Phong Trào Truyền Bá Quốc Ngữ. Ngày nay, trong kỷ nguyên thông tin, chúng ta có những phương tiện truyền thông tân kỳ. Muốn chấn hưng dân khí chúng ta phát động Phong Trào Truyền Bá Nhân Quyền để phổ biến những kiến thức nhân quyền cho quảng đại quần chúng nhất là giới thanh niên sinh viên là những người thiết tha với tiền đồ dân tộc. Có kiến thức nhân quyền người dân sẽ biết rõ họ có quyền đòi thực thi những quyền gì, và những quyền này đã bị tước đoạt ra sao? Từ đó họ sẽ công phẫn và cảm thấy tủi hổ phải sống dưới một chế độ phi nhân, độc tài, tham nhũng, bất công và bất lực. Từ chỗ phẫn tâm đó mới nẩy ra ý chí đấu tranh. Từ khi con người biết sống hợp quần trong xã hội để thành lập quốc gia, giữa người dân và quốc gia có những nghĩa vụ hỗ tương phát sinh từ một khế ước mặc nhiên mệnh danh là khế ước xã hội. Chiếu khế ước này người dân có nghĩa vụ phải đóng thuế để nuôi dưỡng quốc gia, phải đi lính để bảo vệ bờ cõi của quốc gia. Để đáp lại những hy sinh về sinh mạng và tài sản của người dân, quốc gia cũng có nghĩa vụ phải bảo đảm cho người dân những quyền cơ bản như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó là những dân quyền xuất phát từ tư cách công dân. Nhân quyền bao quát hơn và có trước dân quyền. Nhân quyền xuất phát từ nhân phẩm, từ giá trị bẩm sinh của con người. Đây là những quyền của con người như những quyền dân sự chính trị mà cũng là những nhu cầu của con người như những quyền kinh tế xã hội và văn hóa. Những quyền này xuất phát từ tư cách con người và tư cách công dân. Các nước tự do dân chủ đặt vấn đề nhân quyền toàn diện, gồm cả những quyền kinh tế xã hội (cơm ăn áo mặc, y tế giáo dục) và những quyền dân sự chính trị (tự do nhân thân, tự do tinh thần, tự do chính trị). Kinh nghiệm cho biết những vấn đề kinh tế xã hội chỉ có thể được giải quyết thỏa đáng trong chế độ tự do dân chủ. Vì nếu không có một chính phủ dân chủ thì những lợi ích kinh tế đạt được rồi cũng sẽ bị phe cầm quyền tước đoạt bằng tham nhũng và lạm quyền. Từ thế kỷ 13 Anh Quốc ban hành Đại Hiến Chương (Magna Carta) để đề xướng và bảo vệ quyền tự do nhân thân cho người dân không bị bắt bớ, giam giữ, lưu đầy hay hành quyết nếu không có bản án hợp pháp. Đại Hiến Chương không cho phép nhà nước bắt giam phòng ngừa, quản thúc tại gia hay “quản chế hành chánh” những người đối kháng có dũng cảm đứng lên đòi cải thiện đường lối và chính sách quốc gia. Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ (1776) nhìn nhận quyền bình đẳng của con người là một chân lý hiển nhiên, và đề xướng những nhân quyền cơ bản như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp (1789) nêu lên 3 mục tiêu tự do, bình đẳng, bác ái và cảnh giác nhân loại rằng: “Sự phủ nhận, khinh miệt hay lãng quên nhân quyền là nguyên nhân đem lại đại bất hạnh cho người dân và sa đọa cho chính quyền. Mục đích của mọi tập hợp chính trị là để bảo toàn những quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm của con người như quyền tự do, quyền tư hữu, quyền an ninh và quyền đối kháng”. Từ thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, Mạnh Tử cũng chủ trương người dân có quyền đứng lên lật đổ bạo quyền: “Ta chỉ nghe nói giết tên Trụ chứ không nghe nói giết vua”. Đó là quan niệm quý dân khinh vua (dân vi quý, quân vi khinh) mở đường cho chế độ dân chủ với một “chính quyền bởi dân, của dân và vì dân” (Abraham Lincoln). Năm 1941, tại diễn đàn Quốc Hội Hoa Kỳ, Tổng Thống Franklin Roosevelt đề xướng 4 quyền tự do cơ bản:
Lời Mở Đầu Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cũng nhắc lại 4 quyền cơ bản này: “Việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người đều có quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, được giải thoát khỏi sự sợ hãi và sự khốn cùng, được tuyên dương là nguyện vọng cao cả nhất của con người.” Chiếu Hiến Chương Liên Hiệp Quốc các quốc gia hội viên cam kết cộng tác với Liên Hiệp Quốc trong việc tôn trọng và thực thi nhân quyền trên toàn cầu. (Điều 55-56) Vì nhân quyền có tính toàn cầu, bất khả phân, liên lập và liên quan với nhau, quốc gia có trách nhiệm tiên khởi và có nghĩa vụ phải thực sự thi hành đầy đủ và đồng đều nhân quyền và những quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, tôn giáo, chính kiến, hay thành phần xã hội. Với Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, vấn đề nhân quyền đã được quốc tế hóa. Từ nay các quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc không thể chủ trương rằng việc họ thủ tiêu, tàn sát hay đàn áp các công dân của họ chỉ là vấn đề nội bộ! Để kỷ niệm ngày ban hành Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, ngày 10 tháng 12 mỗi năm được gọi là Ngày Quốc Tế Nhân Quyền. Năm 1994, Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Nghị Quyết Chung lấy ngày 11 tháng 5 mỗi năm là Ngày Nhân Quyền cho Việt Nam. Nghị Quyết này đã được Tổng Thống Hoa Kỳ phê chuẩn và ban hành để trở thành Luật Công Pháp ngày 25-5-1994 (số 103. 258), với nội dung chủ yếu như sau:
Lập trường chung thủy của Nhân Dân và Quốc Hội Hoa Kỳ đem lại hứng khởi cho Nhân Dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh đòi Tự Do, Công Lý, Dân Chủ và Nhân Quyền. LUẬT
QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN. Luật Quốc Tế Nhân Quyền là văn kiện pháp lý quan trọng nhất trong thời đại chúng ta. Hai Công Ước Quốc Tế Nhân Quyền là hai hiệp ước quốc tế quan trọng nhất trong lịch sử loài người. Bước sang thiên niên kỷ mới, chúng ta kỳ vọng rằng, rồi đây bạo lực sẽ nhường chỗ cho thuyết phục, chiến trường sẽ nhường chỗ cho hội trường và chiến tranh thế giới sẽ bị thay thế bởi luật pháp quốc tế. Trong niềm tin tưởng đó chúng ta phát động Phong Trào Truyền Bá Nhân Quyền Cho Việt Nam. Luật Quốc Tế Nhân Quyền đề xướng Quyền Dân Tộc Tự Quyết và 26 Nhân Quyền cơ bản. QUYỀN
DÂN TỘC TỰ QUYẾT. Dân tộc tự quyết gồm có quyền tự do tuyển cử và quyền tham gia chính quyền để thiết lập chế độ dân chủ pháp trị. Lời Mở Đầu Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cũng nhận định rằng: “Điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền.” Theo Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ “khi chính quyền vi phạm nhân quyền, người dân có quyền hủy bỏ chính quyền để thiết lập một chính quyền mới đặt căn bản trên những nguyên tắc và thể chế thuận lợi nhất cho việc bảo đảm an ninh và hạnh phúc của con người. Lịch sử đã chúng minh rằng nhân loại thường muốn chịu nhẫn nhục khổ cực hơn là muốn đứng lên đấu tranh để giải trừ các chế độ đã thiết lập từ lâu. Tuy nhiên với thời gian, nếu chính quyền vẫn ngoan cố tiếm đoạt và lạm quyền để siết chặt guồng máy thống trị bạo tàn bằng chế độ chuyên chính tuyệt đối, người dân có quyền và có nghĩa vụ đứng lên lật đổ chính quyền để giành lại những bảo đảm cho cuộc sống tương lai. Trải qua bao nhiêu giai đoạn đàn áp chúng ta đã thỉnh cầu chính quyền cải tổ bằng những lời lẽ nhu hòa nhất. Vậy mà bao nhiêu thỉnh cầu kế tiếp của chúng ta chỉ được trả lời bằng những thóa mạ thường xuyên. Chính quyền này đã biểu lộ cá tính của một bạo quyền. Nó không còn xứng đáng lãnh đạo một dân tộc tự do”… Tâm trạng và ý nguyện của người dân Hoa Kỳ cách đây hơn 200 năm cũng là tâm trạng và ý nguyện của người dân Việt Nam hôm nay. CÁC
NHÂN QUYỀN CƠ BẢN Ngoài Quyền Dân Tộc Tự Quyết, Luật Quốc Tế Nhân Quyền đề xướng 26 Nhân Quyền Cơ Bản chia thành 4 loại như sau: 1.
Những quyền dân sự cho bản thân con người (hay Quyền Tự Do Nhân Thân) TỰ
DO NHÂN THÂN THUỘC VỀ THÂN A.
QUYỀN TỰ DO NHÂN THÂN Đó là 8 quyền dân sự cho bản thân con người mệnh danh là Quyền Tự Do Nhân Thân. B.
QUYỀN AN CƯ 1.
Quyền An Cư trước hết là quyền tự do cư trú và đi lại. Chính sách
quản chế hành chánh phải bị bãi bỏ. C.
QUYỀN LẠC NGHIỆP Từ đó chúng ta bước sang những Quyền Tự Do Tinh Thần và Tự Do Chính Trị mệnh danh là Quyền Tự Do Dân Chủ. D.
QUYỀN TỰ DO DÂN CHỦ Kế tiếp là những quyền tự do chính trị như tự do tư tưởng và tự do phát biểu, tự do ngôn luận và báo chí (quyền thứ hai) Có tư tưởng, có tin tức, ý kiến, phải có cơ hội trao đổi tư tưởng, trao đổi tin tức, ý kiến bằng tự do hội họp, tự do lập hội và tự do lập đảng (quyền thứ ba) Các cá nhân và chính đảng có những chủ trương đường lối ích quốc lợi dân phải có cơ hội thực thi chủ trương này bằng quyền tham gia chính quyền và tự do tuyển cử (quyền thứ tư). Chế độ độc tài toàn trị phải bị bãi bỏ. Phụ
Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền nhấn mạnh về nghĩa vụ của mọi người
phải “bảo vệ dân chủ, đề xướng và phát huy các xã hội dân chủ, các
định chế dân chủ và các thủ tục sinh hoạt dân chủ”. 2.
Tự Do Tư Tưởng và Tự Do Phát Biểu (Freedom of Thought and Expression)
Trong chương trình giáo dục tương lai, chúng ta sẽ không giảng dạy các học thuyết chính trị tại các trường phổ thông công lập. Thay vào đó, tại cấp tiểu học, chúng ta sẽ giảng dạy cho các em về những tình cảm tự nhiên trong Đạo Làm Người như tình gia đình, tình thầy trò, tình bạn bè, tình lối xóm, tình yêu quê hương, yêu đất nước, yêu dân tộc, yêu nhân loại, yêu thiên nhiên và yêu súc vật. Đến bậc trung học chúng ta sẽ giảng dạy cho các học sinh những quyền lợi và nghĩa vụ công dân, đặc biệt nhấn mạnh đến nhân quyền và dân quyền. Từ hai thiên niên kỷ nay, người dân bị đè nén, bóc lột. Họ chỉ nghe nói về bổn phận và nghĩa vụ chứ chưa từng nghe nói về quyền con người và quyền công đân. Đề cao nhân quyền và dân quyền để chấn hưng dân khí, cho người dân đứng lên giành lại quyền làm chủ xã hội, cho con người được phát triển toàn diện, có phần con là những nhu cầu, mà cũng có phần người là những quyền tự do dân chủ. Tại bậc đại học Luật Quốc Tế Nhân Quyền sẽ được giảng dạy vì luật này còn quan trọng hơn cả luật hiến pháp. Luật Quốc Tế Nhân Quyền đề cao nhân phẩm, đem lại tự do hạnh phúc cho con người, hòa giải thân thiện cho các quốc gia, thông cảm bao dung cho các dân tộc, tiến tới một Thế Giới Đại Hòa trong tinh thần bình đẳng, hợp tác và hữu nghị. Đây là giấc mơ ngàn đời của nhân lọai theo đó người trong bốn biển đều là anh chị em. b) Nhà cầm quyền Hà Nội còn vi phạm quyền tự do phát biểu bằng cách cấm tư nhân ra báo. Mọi bài viết có tính đối kháng sẽ bị gán vào tội phản nghịch hay tuyên truyền chống nhà nước. Theo Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp “quyền tự do phát biểu là một trong những quyền cao quý nhất của con người. Mọi người đều có quyền nói, viết, in ấn tự do và chỉ chịu trách nhiệm khi vi phạm luật pháp”. Theo Luật Báo Chí áp dụng tại Miền Nam Việt Nam thời Pháp thuộc, công dân được tự do ra báo mà không phải xin giấy phép hay kiểm duyệt trước (prior censorship). Chỉ khi nào nhà báo xâm phạm danh dự hay quyền lợi của người khác, hoặc vi phạm an ninh quốc gia, trật tự công cộng hay thuần phong mỹ tục, lúc đó biện lý hay nạn nhân mới có quyền khởi tố nhà báo ra tòa để trả lời về trách nhiệm hậu kiểm của họ (subsequent liability). Luật Quốc Tế Nhân Quyền bảo vệ quyền tự do phát biểu trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Dân Sự Chính Trị: “Ai cũng có quyền giữ vững quan niệm mà không bị người khác can thiệp. Ai cũng có quyền tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến các tin tức ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.” (Điều 19). Hồi giữa thế kỷ 19, vì tôn trọng quyền tự do phát biểu, Tòa Án Luân Đôn đã không truy tố Các Mác vì những quan điểm phát biểu trong bản “Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản”, kêu gọi vô sản toàn thế giới đứng lên dùng vũ trang lật đổ chế độ tư bản. 3.
Tự Do Hội Họp và Tự Do Lập Hội (Right of Assembly and Freedom of Association)
Hội họp như diễn thuyết, họp báo, tham dự mít tinh, biểu tình, tuần hành để đạo đạt thỉnh nguyện lên nhà cầm quyền, phản kháng những vi phạm nhân quyền và đấu tranh đòi thực thi nhân quyền. Lập
hội có hai loại, hội dân sự và hội chính trị: b) Ngoài các hội dân sự còn có các hội chính trị hay chính đảng trong chế độ dân chủ đa đảng. Dân chủ đa đảng cộng với xã hội đa nguyên họp thành Dân Chủ Đa Nguyên. Chế độ Dân Chủ Đa Nguyên lên án chế độ độc đảng và độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Điều 4 Hiến Pháp phải bị bãi bỏ. 4.
Quyền Tự Do Tuyển Cử và Quyền Tham Gia Chính Quyền (Rights to Free
Election and to Participate in Government) Trái
với quan niệm cổ xưa theo đó nguồn gốc chủ quyền xuất phát từ quốc
gia, Luật Quốc Tế Nhân Quyền minh định rằng “ý nguyện của người dân
được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia. Ý dân phải được biểu
lộ trung thực qua những cuộc tuyển cử tự do và công bằng, theo phương
thức đầu phiếu phổ thông, định kỳ và kín.” (Điều 25 Công Ước về Những
Quyền Dân Sự và Chính Trị) Về mặt chính trị, Đảng Cộng Sản hứa hẹn thiết lập một chế độ dân chủ gấp triệu lần chế độ dân chủ Tây Phương. Đây chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền. Chúng ta không so sánh Việt Nam với các nước Tây Phương, và cũng không so sánh Việt Nam với các nước dân chủ Á Châu như Nhật Bản, Ấn Độ, Đại Hàn, Đài Loan, Mã Lai, Tân Gia Ba, Thái Lan, Phi Luật Tân v...v... Chúng ta hãy lấy nước láng giềng Căm Bốt làm đối tượng so sánh mức độ dân chủ của hai nước trong bán đảo Đông Dương. Bốn thước đo dân chủ là: tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do lập hội và tự do tuyển cử. Chấm
100 điểm cho 4 quyền tự do, mỗi quyền được tối đa 25 điểm. Tổng cộng: Căm Bốt: 50 điểm; Việt Nam: 0 điểm. Đây là mối nhục cho Việt Nam. Từ ngày lập quốc chưa bao giờ uy tín chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế lại sa sút như vậy! Việt Nam hiện nay đứng chót trong bậc thang tự do dân chủ của 200 quốc gia trên thế giới, kém cả Cao Miên. Trong bậc thang kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay là một trong những nước nghèo đói nhất trên thế giới, kém cả Congo và ngang Bắc Hàn. Lợi tức bình quân mỗi đầu người tại Việt Nam chỉ bằng 1/45 tại Tân Gia Ba, 1/26 tại Đài Loan, 1/25 tại Đại Hàn, 1/8 tại Mã Lai, 1/5 tại Thái Lan, 1/2 tại Phi Luật Tân, 3/5 tại Nam Dương, và chỉ bằng 3/4 tại Congo. Theo Encyclopedia Britannica Book of The Year 2005, lợi tức bình quân mỗi đầu người tại Việt Nam năm 2003 là 480 mỹ kim so với 640 mỹ kim tại Congo và 457 mỹ kim tại Bắc Hàn. Ngày nay lịch sử đã chứng minh rằng Đảng Cộng Sản không có tư cách và khả năng lãnh đạo quốc gia. Và chế độ Độc Tài Đảng Trị phải được giải thể để người dân hành sử Quyền Dân Tộc Tự Quyết, thiết lập chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các nhân quyền và dân quyền được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát triển và công bằng xã hội được thực thi. T.M.
ỦY BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN
Những người ký Hiến
Chương 77 ủng hộ đối lập Cộng sản Việt Nam www.TDNgonLuan.com hoan nghênh ý kiến đóng góp của qúy vị độc giả. Xin email về: tdngonluan@yahoo.com hay type vào hộp Ý Kiến/Comment Box ở dưới đây và nhấn vào nút "Submit" để gởi đi. Trân trọng: Ý
KIẾN ĐỘC GIẢ: |