Tuyên
Ngôn
Tự do Dân chủ cho Việt
Nam 2006
(Manifesto công bố lần 10
kỷ niệm 6 tháng ngày 08-4 & 10-2006)
của Khối 8406 gồm 1.951 Công dân & 420
gia đình đấu tranh Dân chủ quốc nội Việt Nam
.
Lm
Tađêô Nguyễn Văn Lý đọc Tuyên ngôn
Manifesto
on Freedom and Democracy for Vietnam in 2006
Audio in English
..........................................................................................................................................................................
Việt
Nam, ngày 8-4-2006
- Công bố lần 2 ngày 27 tháng 4 năm 2006 (166 Công dân)
- Lần 3 ngày 01 tháng 5 năm 2006 (220 Công dân)
- Lần 4 kỷ niệm 01 tháng ngày 08 tháng 5 năm 2006 (424 Công dân
+ 420 gia đình)
-
Lần 5, ngày 20 tháng 5 năm 2006 (548 Công dân)
- Lần 6, ngày 8 tháng 6 năm 2006 (1663 Công dân)
-
Lần 8, ngày 8 tháng 8 năm 2006 (1893 Công dân)
- Lần 10, ngày 8 tháng 10 năm 2006 (1951 Công dân)
Kính
gửi Đồng bào Việt Nam ở trong và ngoài Nước,
Chúng
tôi, ký tên dưới đây, đại diện cho hàng trăm nhà đấu tranh Dân chủ
ở quốc nội và tất cả mọi người Dân nào đang khao khát một nền Dân
chủ chân chính cho Quê hương Việt Nam hôm nay, đồng thanh lên tiếng
:
I. Thực trạng của Việt Nam
1- Trong cuộc Cách mạng tháng 8-1945, sự lựa chọn
của toàn Dân tộc ta là Độc lập Dân tộc,
chứ không phải là chủ nghĩa xã hội. Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2-9-1945 chẳng nhắc đến một từ nào về chủ
nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản cả. Hai nguyên nhân chính làm
nên thắng lợi của cuộc Cách mạng ấy là Khát vọng Độc
lập Dân tộc và Khoảng trống quyền lực
lúc bấy giờ ở Việt Nam (quân Nhật đã đầu hàng phe Đồng minh ngày
15-8-1945 và thực dân Pháp đã bị quân Nhật đảo chính cướp quyền
từ ngày 9-3-1945).
Rõ ràng mục tiêu của cuộc cách mạng ấy đã bị đảng Cộng sản Việt
Nam đánh tráo. Và dĩ nhiên, Quyền Dân tộc tự quyết
cũng hoàn toàn bị thủ tiêu. Đã có ít nhất 2 cơ hội lịch sử rất thuận
lợi là năm 1954 ở miền Bắc và năm 1975 trên cả nước, để Dân tộc
khẳng định Quyền tự quyết của mình. Nhưng
tất cả đều đã bị đảng Cộng sản Việt Nam tráo trở không thực hiện.
Vì một khi nền chuyên chính vô sản đã được thiết lập, thì theo Lênin,
chức năng đầu tiên của nó chính là : bạo lực và khủng
bố trấn áp !
2- Tiếp đến, ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, ông Hồ Chí
Minh, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã trịnh trọng tuyên bố với Dân tộc và với Thế giới rằng : "Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời nói bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập nǎm 1776 của nước
Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là : mọi Dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của Cách mạng Pháp nǎm 1791 cũng nói : "Người
ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi ; và phải luôn luôn được
tự do và bình đẳng về quyền lợi". Đó là những
lẽ phải không ai chối cãi được…”. (trích Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945).
Thế nhưng, tất cả những quyền thiêng liêng ấy của Dân
tộc đều bị chà đạp thô bạo ngay sau đó, khi mà chính quyền cộng
sản được dựng lên.
3- Đến tháng 2-1951 Tuyên ngôn của đảng Lao động
Việt Nam (nay là đảng Cộng sản Việt Nam) kỳ đại hội lần thứ 2, đã
viết: “Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác–Lênin”.
Và trong Điều Lệ, phần Mục Đích và Tôn Chỉ còn khẳng định rõ ràng
hơn : “Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Ǎngghen
- Lênin - Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, kết hợp với thực tiễn
cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng…”.
Kể từ đó, nhất là ở miền Bắc sau năm 1954, rồi cả nước sau ngày
30-4-1975, bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đã luôn đè ám lên đầu,
lên cổ toàn Dân Việt Nam. Chính cái bóng ma ấy chứ không phải là
cái gì khác đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của Nhân
dân Việt Nam. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên
cả 2 mặt tinh thần và thể chất của toàn Dân tộc Việt Nam.
II. Qui luật phổ biến toàn cầu
1- Lịch sử đã minh định rằng mọi quyền tự do, dân
chủ ở bất cứ một chế độ độc đảng toàn trị nào, dù cộng sản hay không
cộng sản, cũng đều bị chà đạp không thương tiếc,
chỉ khác nhau ở mức độ mà thôi. Bất hạnh thay là cho đến nay, Dân
tộc Việt Nam vẫn thuộc về một trong số ít các Quốc gia trên thế
giới còn bị cai trị bởi chế độ độc đảng toàn trị cộng sản. Điều
này thể hiện cụ thể tại Điều 4 của Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam hiện hành, rằng : “Đảng cộng sản Việt Nam...
theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo nhà nước và xã hội.” Chính vì điều này mà các quyền tự
do, dân chủ của Nhân dân đã hoàn toàn bị triệt tiêu, may ra chỉ
còn vài mẩu vụn mà thôi !
2-
Chính hệ thống quyền lực không hề chấp nhận cạnh tranh
và không hề chấp nhận bị thay thế này đã thúc đẩy
mạnh mẽ đà thoái hoá, biến chất của toàn bộ hệ thống ấy. Vì chẳng
có qui luật và nguyên tắc cạnh tranh công bằng nào trên chính trường,
nên sau những kỳ bầu cử toàn Dân không thể chọn được những con người
và những lực lượng chính trị xứng đáng nhất. Bộ máy lãnh đạo, quản
lý và điều hành do vậy ngày càng hư hỏng, rệu rã từ trung ương xuống
cơ sở địa phương. Hậu quả là Việt Nam hôm nay trở thành Quốc gia
bị tụt hậu quá xa so với các Nước trong khu vực và thế giới. Quốc
nhục này và các quốc nạn khác khó bề tẩy xóa. Vấn đề
của mọi vấn đề, nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính
vì đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo
Đất nước ! Thực tiễn đã xác minh rằng bất kỳ Nước nào đã bị rơi
vào quỹ đạo của chủ nghĩa cộng sản thì đều điêu tàn
thê thảm cả. Liên Xô, cái nôi cộng sản, cùng với các
Nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu khác, đã dũng cảm vượt
qua chính mình để quay lại tìm đường đi đúng cho Dân
tộc họ.
3- Chúng ta đều hiểu rằng : không ai có thể sửa
được lịch sử, nhưng có thể bẻ chiều lịch sử. Và điều quan trọng
hơn là qua những bài học của lịch sử, định hướng tốt cho tương lai.
Con đường hôm qua của Dân tộc ta đã bị những người Cộng sản Việt
Nam chọn một cách vội vàng, thiếu chín chắn và áp đặt cho cả Dân
tộc một cách khiên cưỡng. Con đường ấy thực tế đã chứng minh là
hoàn toàn sai lạc. Vì vậy Dân tộc ta hôm nay phải chọn lại con đường
cho mình. Và chắc chắn cả Dân tộc cùng chọn sẽ tốt hơn
một người hay một nhóm người nào đó. Đảng cộng sản
Việt Nam cũng chỉ là một bộ phận của Dân tộc, nên không thể mạo
danh Dân tộc để chọn thay ! Trước Dân tộc và lịch sử suốt hơn nửa
thế kỷ qua (1954–2006), Đảng cầm quyền ấy đã tiếm danh
chứ không chính danh chút nào ! Bởi lẽ các cuộc
bầu cử thực sự tự do hoàn toàn vắng bóng ở Việt Nam.
Từ thực
trạng và qui luật trên đây, với ý thức trách nhiệm của Công dân
trước vận mệnh Đất nước, chúng tôi xin được phép giãi bày cùng toàn
thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài Nước :
III. Mục tiêu, phương pháp và ý nghĩa cuộc
đấu tranh
1- Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành
tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế
chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để,
chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh
như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất
nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay,
sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng,
có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của
Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành
pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp
với các tiêu chuẩn quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những
nền dân chủ đắt giá và đầy thành tựu.
Mục tiêu cụ thể là thiết lập lại các quyền cơ bản của
toàn Dân sau đây :
- Quyền Tự do Thông tin Ngôn luận theo Công
ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc
được biểu quyết ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24-9-1982,
điều 19,2 : “Mọi người có quyền tự do ngôn luận, quyền
nầy bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại
tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức truyền miệng,
bằng bản viết, bản in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông
qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác tuỳ theo sự lựa
chọn của mình”. Nghĩa là các đảng phái, tổ chức, cá
nhân có quyền thông tin ngôn luận qua báo chí, phát thanh, truyền
hình và các phương tiện truyền thông đại chúng khác mà không cần
đợi phép của nhà cầm quyền.
- Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, bầu cử và ứng
cử theo Công ước Quốc tế về các
Quyền Dân sự và Chính trị, điều 21 : “Mọi
Công dân… đều có quyền và cơ hội để (a) tham gia vào việc điều hành
các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại
diện được họ tự do lựa chọn”; (b) bầu cử và ứng cử trong các cuộc
bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và
bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ ý nguyện của mình”.
Nghĩa là các đảng phái thuộc mọi khuynh hướng cùng
nhau cạnh tranh lành mạnh trong một nền dân chủ đa nguyên, đa đảng
chân chính.
- Quyền Tự do hoạt động Công đoàn độc lập và Quyền
Đình công chính đáng theo Công ước Quốc tế
về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, được Liên
Hiệp Quốc biểu quyết ngày 16-12-1966, điều 7 và 8
: “Các Quốc gia thành viên của Công ước công nhận quyền
của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận
lợi…, quyền của mọi người được thành lập và gia nhập Công đoàn mà
mình lựa chọn, chỉ phải tuân theo quy chế của Tổ chức đó để thúc
đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình…
(với) quyền đình công…”. Các công đoàn
này phải là những tổ chức duy nhất hoạt động độc lập, không có những
loại Công đoàn tay sai của nhà cầm quyền.
- Quyền Tự do Tôn giáo theo Công ước Quốc
tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, điều 18
: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng
và tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm tự do có hoặc theo một Tôn
giáo hoặc Tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ Tín ngưỡng hoặc
Tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách
công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực
hành và truyền đạo”. Các Tôn giáo này phải hoạt động
độc lập, chứ không thể bị biến thành công cụ cho nhà cầm quyền.
2- Phương pháp của cuộc đấu tranh này là
hòa bình, bất bạo động. Và chính Dân tộc Việt Nam
chủ động thực hiện cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, chúng ta rất cảm
ơn sự ủng hộ nhiệt tình và ngày càng hiệu quả của tất cả những bạn
bè trên thế giới. Thông qua những phương tiện thông tin hiện đại
và qua sự giao lưu quốc tế ngày càng rộng mở, chúng ta sẽ tìm mọi
cách giúp Đồng bào kiện toàn nhận thức.
Và một khi Nhân dân đã có nhận thức đúng và rõ thì
nhất định sẽ biết hành động thích hợp và hiệu quả.
3- Ý nghĩa của cuộc đấu tranh
này là làm cho chính nghĩa thắng phi nghĩa,
tiến bộ thắng lạc hậu, các lực lượng dân tộc đang vận dụng đúng
quy luật của cuộc sống và xu thế của thời đại thắng những tà lực
đang tìm cách đi ngược lại những xu thế và quy luật ấy. Đảng cộng
sản Việt Nam vẫn còn đồng hành cùng Dân tộc hay không là tùy ở mức
độ đảng ấy có khách quan, công bằng, sáng suốt và khiêm tốn chấp
nhận các nguyên tắc bình đẳng của cuộc cạnh tranh lành mạnh hay
không, chỉ có thể chế chính trị độc đảng ấy là dứt khoát
phải bị chôn táng vĩnh viễn vào quá khứ. Từ đó, Dân
tộc sẽ tìm được những con người tốt nhất, những lực lượng chính
trị giỏi nhất sau mỗi kỳ bầu cử để lãnh đạo Đất nước. Nguyên tắc
“lẽ phải toàn thắng” sẽ được thiết lập và cuộc sống
cá nhân sẽ trở nên tốt hơn, xã hội sẽ trở nên nhân bản hơn và Đồng
bào sẽ sống với nhau thân thiện hơn.
Chúng
tôi mong ước Tuyên ngôn này thúc đẩy được sự đóng góp
tích cực của Đồng bào trong ngoài Nước và sự ủng hộ của Bạn bè Quốc
tế. Chúng tôi chân thành cảm ơn và kêu gọi các Cơ
quan Liên Hiệp Quốc, các Quốc hội, Chính phủ, Tổ chức Quốc tế và
Bạn bè trên toàn thế giới tiếp tục ủng hộ cách nhiệt tình và hiệu
quả cho cuộc đấu tranh đầy chính nghĩa này, góp phần đưa Tổ quốc
Việt Nam sớm sánh vai cùng các Nước văn minh, đạo đức, thịnh vượng,
tự do trong cộng đồng Nhân loại hôm nay.
Đồng
tuyên bố tại Việt Nam lần đầu ngày 08 tháng 4 năm 2006 (118 Công dân)
Lần 2 ngày 27 tháng 4 năm 2006 (166 Công dân)
Lần 3 ngày 01 tháng 5 năm 2006 (220 Công dân)
Lần 4 kỷ niệm 01 tháng ngày 08 tháng 5 năm 2006 (424 Công dân + 420
gia đình)
Lần 5 ngày 20 tháng 5 năm 2006 (548 Công dân)
Lần 6 ngày 8 tháng 6 năm 2006 (1.663 Công dân)
Lần 7 ngày 8 tháng 7 năm 2006 (1.736 Công dân)
Lần 8 ngày 8 tháng 8 năm 2006 (1.893 Công dân)
Lần 9 ngày 8 tháng 9 năm 2006 (1.911 Công dân)
Lần 10 ngày 8 tháng 10 năm 2006 (1.951 Công dân)
1.
Bác sĩ Nguyễn Xuân An, Thừa Thiên-Huế
2. Giáo viên Đặng Hoài Anh, Thừa Thiên-Huế
3. Giáo viên Đặng Văn Anh, Thừa Thiên-Huế
4. Bác sĩ Lê Hoài Anh, Nha Trang
5. Giáo sư Nguyễn Kim Anh, Thừa Thiên-Huế
6. Giáo sư Nguyễn Ngọc Anh, Đà Nẵng
7. Nhân viên Trịnh Cảnh, Vũng Tàu
8. Linh mục F.X. Lê Văn Cao, Thừa Thiên-Huế
9. Giáo viên Lê Cẩn, Thừa Thiên-Huế
10. Linh mục Giuse Hoàng Cẩn, Thừa Thiên-Huế
11. Giáo viên Trần Thị Minh Cầm, Thừa Thiên-Huế
12. Linh mục G. Nguyễn Văn Chánh, Thừa Thiên-Huế
13. Giáo viên Nguyễn Thị Linh Chi, Cần Thơ
14. Giáo sư Hoàng Minh Chính, Hà Nội
15. Giáo viên Nguyễn Viết Cử, Quảng Ngãi
16. Thạc sĩ Đặng Quốc Cường, Thừa Thiên-Huế
17. Nhân viên Nguyễn Đắc Cường, Phan Thiết
18. Doanh nhân Hồ Ngọc Diệp, Đà Nẵng
19. Giáo viên Trần Doãn, Quảng Ngãi
20. Công dân Lê Thị Phú Dung, Sài Gòn
21. Giáo viên Hồ Anh Dũng, Thừa Thiên-Huế
22. Giáo sư Trương Quang Dũng, Thừa Thiên-Huế
23. Bác sĩ Hà Xuân Dương, Thừa Thiên-Huế
24. Cựu Đại tá Phạm Quế Dương, Hà Nội
25. Luật sư Nguyễn Văn Đài, Hà Nội
26. Kế toán Trần Văn Đón, Phan Thiết
27. Bác sĩ Hồ Đông, Vĩnh Long
28. Linh mục Pr Nguyễn Hữu Giải, Thừa Thiên-Huế
29. Doanh nhân Trần Văn Ha, Đà Nẵng
30. Giáo viên Lê Thị Bích Hà, Cần Thơ
31. Bác sĩ Lê Thị Ngân Hà, Thừa Thiên-Huế
32. Giáo viên Lê Nguyễn Xuân Hà, Thừa Thiên-Huế
33. Công dân Vũ Thuý Hà, Hà Nội
34. Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài Gòn
35. Giáo viên Trần Thạch Hải, Hải Phòng
36. Kế toán Trần Việt Hải, Vũng Tàu
37. Kỹ sư Đoàn Thị Diệu Hạnh, Vũng Tàu
38. Doanh nhân Nguyễn Thị Hạnh, Đà Nẵng
39. Giáo viên Phan Thị Minh Hạnh, Thừa Thiên-Huế
40. Giáo sư Đặng Minh Hảo, Thừa Thiên-Huế
41. Nhân viên Trần Hảo, Vũng Tàu
42. Nhà văn Trần Mạnh Hảo, Sài Gòn
43. Giáo viên Lê Lệ Hằng, Thừa Thiên-Huế
44. Linh mục Giuse Nguyễn Đức Hiểu, Bắc Ninh
45. Y tá Chế Minh Hoàng, Nha Trang
46. Giáo viên Văn Đình Hoàng, Thừa Thiên-Huế
47. Giáo viên Lê Thu Minh Hùng, Sài Gòn
48. Giáo sư Nguyễn Minh Hùng, Thừa Thiên-Huế
49. Linh mục Gk Nguyễn Văn Hùng, Thừa Thiên-Huế
50. Giáo viên Phan Ngọc Huy, Thừa Thiên-Huế
51. Giáo viên Lê Thị Thanh Huyền, Thừa Thiên-Huế
52. Giáo viên Đỗ Thị Minh Hương, Thừa Thiên-Huế
53. Thạc sĩ Mai Thu Hương, Hải Phòng
54. Y tá Trần Thu Hương, Đà Nẵng
55. Phó Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Kế, Thừa Thiên-Huế
56. Giáo sư Nguyễn Chính Kết, Sài Gòn
57. Thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh, Thừa Thiên-Huế
58. Giáo viên Nguyễn Đăng Khoa, Thừa Thiên-Huế
59. Cựu Thiếu tá Vũ Kính, Hà Nội
|
|
60.
Nhân viên Bùi Lăng, Phan Thiết
61. Giáo viên Tôn Thất Hoàng Lân, Sài Gòn
62. Hội trưởng PGHHTT Lê Quang Liêm, SGN
63. Bác sĩ Vũ Thị Hoa Linh, Sài Gòn
64. Linh mục G.B. Nguyễn Cao Lộc, Thừa Thiên-Huế
65. Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Bắc Ninh
66. Giáo viên Ma Văn Lựu, Hải Phòng
67. Giáo viên Nguyễn Văn Lý, Hải Phòng
68. Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Thừa Thiên-Huế
69. Giáo viên Cái Thị Mai, Hải Phòng
70. Giáo viên Cao Thị Xuân Mai, Thừa Thiên-Huế
71. Giáo viên Nguyễn Văn Mai, Sài Gòn
72. Nhân viên Hà Văn Mầu, Cần Thơ
73. Giáo viên Phan Văn Mậu, Thừa Thiên-Huế
74. Nhân viên Lê Thị Thu Minh, Cần Thơ
75. Giáo viên Ma Văn Minh, Thừa Thiên-Huế
76. Giáo viên Nguyễn Anh Minh, Sài Gòn
77. Bác sĩ Huyền Tôn Nữ Phương Nhiên, Đà Nẵng
79. Công dân Bùi Kim Ngân, Hà Nội
79. Thạc sĩ Đặng Hoài Ngân, Thừa Thiên-Huế
80. Linh mục G.B. Lê Văn Nghiêm, Thừa Thiên-Huế
81. Mục sư HTTL Ngô Hoài Nở, Sài Gòn
82. Giáo viên Lê Hồng Phúc, Hải Phòng
83. Linh mục Đa Minh Phan Phước, Thừa Thiên-Huế
84. Kỹ sư Võ Lâm Phước, Sài Gòn
85. Linh mục Giuse Cái Hồng Phượng, Thừa Thiên-Huế
86. Mục sư HTTL Nguyễn Hồng Quang, Sài Gòn
87. Kỹ sư Tạ Minh Quân, Cần Thơ
88. Linh mục Augustinô Hồ Văn Quý, Thừa Thiên-Huế
89. Linh mục Giuse Trần Văn Quý, Bùi Chu
90. Bác sĩ Võ Văn Quyền, Vĩnh Long
91. Bác sĩ Trần Thị Sen, Nha Trang
92. Cư sĩ PGHHTT Lê Văn Sóc, Vĩnh Long
93. Kỹ sư Hoàng Sơn, Hải Phòng
94. Linh mục Phaolô Ngô Thanh Sơn, Thừa Thiên-Huế
95. Giáo sư Nguyễn Anh Tài, Đà Nẵng
96. Kỹ sư Đỗ Hồng Tâm, Hải Phòng
97. Bác sĩ Tạ Minh Tâm, Cần Thơ
98. Giáo sư Nguyễn Thành Tâm, Thừa Thiên-Huế
99. Mục sư HTTL Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn
100. Giáo viên Nguyễn Bình Thành, Thừa Thiên-Huế
101. Giáo viên Văn Bá Thành, Thừa Thiên-Huế
102. Cư sĩ PGHHTT Nguyễn Văn Thơ, Đồng Tháp
103. Thạc sĩ Trần Mạnh Thu, Hải Phòng
104. Giáo sư Ts Trần Hồng Thư, Sài Gòn
105. Nhà văn Hoàng Tiến, Hà Nội
106. Cựu Sĩ quan Trần Dũng Tiến, Hà Nội
107. Linh mục Têphanô Chân Tín, Sài Gòn
108. Giáo viên Nguyễn Khắc Toàn, Hà Nội
109. Nhân viên Tôn Nữ Minh Trang, Phan Thiết
110. Giáo viên Chế Thị Hồng Trinh, Thừa Thiên-Huế
111. Bác sĩ Nguyễn Anh Tú, Đà Nẵng
112. Bác sĩ Đoàn Minh Tuấn, Sài Gòn
113. Giáo viên Lê Trí Tuệ, Hải Phòng
114. Y tá Trần Thị Hoài Vân, Nha Trang
115. Giáo viên Ngô Thị Tường Vi, Quảng Ngãi
116. Giáo viên Nguyễn Lê Xuân Vinh, Cần Thơ
117. Thạc sĩ Hồ Ngọc Vĩnh, Đà Nẵng
118. Kỹ sư Lâm Đình Vĩnh, Sài Gòn
*(08-4-2006)
Xem
toàn bộ danh sách 1.951 Công dân đồng ký tên (12 trang, dạng:
.pdf format)
|
Manifesto
on Freedom and Democracy for Vietnam in 2006 by 118 Vietnamese peaceful
fighters in Vietnam
Audio in English
*** Kính
mời Quý Vị & Quý Bạn Hữu tham gia ký tên Bản Tuyên Bố Đòi Quyền
Tự Do Thông Tin Ngôn Luận cho toàn dân Việt Nam, xin nhấn vào Link
này: http://www.petitiononline.com/tdnl1234/
................................................................................
-
Khối 8406 xin chân thành cảm ơn tất cả các Chính khách
Quốc tế và tất cả các Nhân sĩ Việt Nam đã nhanh chóng hỗ trợ Tuyên
ngôn 8406 bằng nhiều cách thức rất phong phú và hi vọng đạt nhiều
hiệu quả. Công bố tại Việt Nam, lần đầu ngày 8-4-2006 & lần
thứ 10 ngày 8-10-2006 dịp kỷ niệm 6 tháng Tuyên ngôn Tự do Dân chủ
cho Việt Nam 2006 (TN 8406)
Đại
diện lâm thời Khối 8406 gồm 1.951 Chiến sĩ Dân chủ
Hoà bình và hàng vạn Công dân quốc nội :
Đỗ Nam Hải, Kỹ sư, Sài Gòn.
Trần Anh Kim, Cựu Sĩ quan, Thái Bình.
Nguyễn Văn Lý, Linh mục Công giáo, Huế.
Kính cảm ơn nhiều.
|