“Mọi
người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới,
bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật,
hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác theo sự
lựa chọn của mình”
(Điều
19,2 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Liên Hiệp Quốc
biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982).
(Everyone
shall have the right to freedom of expression; this right shall include
freedom to seek, receive and impart information and ideas of all kinds,
regardless of frontiers, either orally, in writing or in print, in the
form of art, or through any other media of his choice.)
|
D
I Ễ N Đ À N Sự
kiện gần nhất Đại
hội Nhà Văn Việt Nam Đến
lượt nhà văn bị bịt miệng Tuy nhiên có lẽ tiếng nói mạnh mẽ nhất là Trần Mạnh Hảo, tác giả bài tham luận được phổ biến trên mạng trước cả khi Đại hội bắt đầu. Tuy được viết theo đơn đặt hàng của nhà văn Hữu Thỉnh, Chủ tịch hội Nhà Văn Việt Nam, nhưng lại không được phép đọc tại Đại Hội. Không những thế, tại hội trường, khi tác giả bài tham luận chỉ muốn ngỏ lời với dăm câu ba chữ thôi, thì cứ đụng đến micro nào là đường dây micro đó y như bị sét đánh, thành ra cuối cùng chẳng nói năng gì được. Lý do chẳng có gì khó đoán, đó là vì nội dung của bài tham luận “có vấn đề”. Nguyên cái tiêu đề thôi cũng làm cho ai yếu bóng vía phải giật mình : “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước.” Đọc những chữ, những câu đầu tiên, ta có cảm tưởng đang chứng kiến cảnh một võ sĩ vừa nhảy lên khán đài đã vung tay múa kiếm : “Thói thường, con người sợ món gì nhất ? Sợ ma quỷ ư ? Không ! Sợ vợ ư ? Không ! Sợ công an ư ? Không ! Sợ kẻ cầm quyền ư ? Không ! Sợ chết ư ? Không !”. Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật. Sau khi đặt câu hỏi và tự trả lời, tác giả liền chứng minh : “Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị ? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.” Rồi dựa vào định đề của K.Marx : “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”, tác giả lần lượt nêu lên ý tưởng của cố tổng thống Ba-lan Lech Kaczinxki : “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất, luôn luôn giải phóng con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hoà hợp.” Tác giả cũng nhắc lại chủ đề cuộc hội thảo do Ban Tuyên giáo trung ương tổ chức đại Đà Lạt trong hai ngày 12-13 tháng 07 năm 2010, chủ đề đó là “Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước hôm nay.” Tác giả cũng không quên nhắc lại lời cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh căn dặn văn nghệ sĩ : “Cởi trói như thế nào… Cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí… Tôi cho rằng khi sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”. Ba
sự thật SỰ THẬT HAI : Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không ? Không ! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng ? Thưa, chính quyền ! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi… SỰ
THẬT THỨ BA : Nói một đàng, làm một nẻo, hay là danh
không chính thì ngôn không thuận. Hướng
về Đại hội Dân Chúa Sự thật một : Những điều Trần Mạnh Hảo nói trên đây liên quan đến sự tồn vong của đất nước, của dân tộc là điều hiển nhiên không thể phủ nhận. Câu hỏi đặt ra là trước thảm trạng đó, Giáo Hội Công Giáo chúng ta đã có động thái nào để chứng minh là mình gắn bó với dân tộc, với đất nước. Trong khi các nhà trí thức nhận ra ý đồ xâm lược của ngoại bang nhân vụ bauxite Tây Nguyên, đã nhanh chóng và mạnh mẽ lên tiếng, không những chỉ những người sống trong nước, nhưng cả đến những người Việt ở nước ngoài, kể cả những người không còn giữ quốc tịch Việt Nam, trong khi có những sinh viên, học sinh mạnh dạn kéo nhau đi biểu tình, rồi đến khi bị công an sách nhiễu, canh chừng quá kỹ, thì đêm đêm tìm cách lén vẽ lên tường mấy chữ HS-TS-VN để biểu hiện lòng yêu nước, biểu hiện quyết tâm bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa, quyết tâm giữ gìn sự toàn vẹn của lãnh thổ, thì Giáo Hội Công Giáo không có nổi một cử chỉ, một tiếng nói, cứ bình chân như vại, như thể những chuyện đó chẳng liên quan chi tới mình. Vậy sự thật có phải là Giáo Hội Công Giáo đang quyết tình đứng bên lề dân tộc ? Sự thật hai : Tại Na-da-rét, Đức Giê-su đã mặc khải sứ mạng cứu thế của ngài khi trích dẫn lời sấm của I-sai-a : “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc 4,18). Và sứ mạng của Hội Thánh là tiếp nối công trình cứu độ của Đức Giê-su. Thế thì trên đất nước Việt Nam hôm nay, khi từ bắc chí nam, từ nông thôn đến thành thị, người dân oan bị cướp đất không còn biết kêu ai, vì đi nộp đơn kêu oan thì cứ bị đùn đẩy từ toà dưới lên toà trên, rồi lại từ toà trên xuống toà dưới, khi những người bày tỏ chính kiến cách ôn hoà nhằm góp phần xây dựng xã hội, xây dựng đất nước, những người đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền, bị áp bức, bị tù tội, ngay cả lúc chưa vào tù thì cũng không còn đường sống, vì đi xin việc không ai dám nhận, đi thuê nhà không ai dám cho, khi phụ nữ bị bán làm gái mại dâm, người lao động bị bóc lột tàn tệ, trong những hoàn cảnh bi đát thê thảm như thế, mà Giáo Hội Công Giáo vẫn ngậm miệng làm thinh, thì sự thật hôm nay có phải là Giáo Hội đang quay lưng lại với người nghèo, người bị bóc lột, bị áp bức ? Sự thật ba : Chúng ta viện cớ “không làm chính trị” để khỏi lên tiếng khi phải lên tiếng, chúng ta nói hiệp thông mà chẳng hiệp thông, chúng ta đề ra phương châm hấp dẫn “Đồng hành với dân tộc”, để cuối cùng chỉ đồng hành trên giấy, chúng ta tôn vinh lòng thương xót Chúa, nhưng khi xảy ra các vụ Thái Hà, Tam Toà, Loan Lý, và mới đây nhất là Cồn Dầu, thái độ của ta là ai chết mặc ai. Thế thì câu hỏi đặt ra là : phải chăng chúng ta cũng như những cán bộ cộng sản : “nói mà không làm, hay nói một đàng làm một nẻo ?” Mấy điểm tôi nêu trên đây chỉ mang tính gợi ý để ta có thể nhìn lại và suy nghĩ, vì tôi không muốn, mà cũng không có khả năng liệt kê đầy đủ những điều phải tránh, hay những việc phải làm. Hy vọng sẽ còn nhiều người khác góp ý cho Đại hội. Vai
trò của lãnh đạo Trước câu hỏi này, diễn đàn Nữ Vương Công Lý ngày 20-08-2010 đăng tải bài của Lê Thiên : “Hội Đồng Giám Mục : Giáo luật và thực tiễn tại Việt Nam”. Đọc xong bài của Lê Thiên, tôi thầm nghĩ : ông này đúng là “bạo phổi”. Là vì dám “đụng” đến giám mục đã là “to gan” rồi, nhưng ở đây Lê Thiên đụng tới cả Hội Đồng Giám Mục (HĐGM) ! Có điều ông không nói vu vơ, nhưng nói có sách. Trong phần chú thích, ông liệt kê ra đến 86 điều trong Bộ Giáo Luật liên quan đến HĐGM ! Ông dựa vào đó để chỉ ra quyền hạn và trách nhiệm của HĐGM. Rồi ông khẳng định : “Chúng ta có thể kết luận rằng, theo nội dung Bộ Giáo Luật, HĐGM là một tập thể những vị Chủ Chăn cùng liên đới trách nhiệm làm “tiếng nói cho những người không có tiếng nói” trong một quốc gia. Bất cứ lúc nào và ở đâu trong địa bàn hoạt động của mình, khi xảy ra một biến cố đụng chạm đến đàn Chiên, thì tập thể Chủ Chăn trong HĐGM cũng đều nhanh chóng can dự vào bằng cách này hoặc cách khác, chứ không lưỡng lự “lên tiếng hay không lên tiếng” để rồi đi tới chỗ vô cảm, vô can và… vô trách nhiệm. Với hàng loạt quyền hạn pháp định, không một HĐGM nào tự cho phép mình nại ra bất kỳ lý do gì để tránh can dự vào việc đấu tranh bảo vệ công bằng xã hội, bảo vệ quyền sống của con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, quyền sở hữu tài sản, quyền tự do ngôn luận, tự do tỏ bày tư tưởng hay phát biểu quan điểm, quyền tự do cư trú cùng các quyền tự do căn bản chính đáng khác… !” Không dừng lại nơi những nguyên tắc trừu tượng, Lê Thiên đi thẳng vào các vấn đề thời sự đặc biệt trong hai năm vừa qua : “Những vụ xúc phạm đến các biểu tượng thiêng liêng của người tín hữu, như xúc phạm tới Thánh giá, tới các ảnh tượng và nơi thánh, dù xảy ra ở bất cứ nơi nào trên đất nước, đều không thể coi là chuyện riêng của một cá nhân, một nhóm người, một giáo xứ hay giáo phận. Trong những biến cố dầu sôi lửa bỏng như trên, hay những vụ đàn áp bắt bớ, tù đày, gây thương tích hoặc làm chết người, làm sao HĐGM có thể nhẫn tâm chần chờ, đắn đo để xem có nên “lên tiếng hay không lên tiếng” ? Chưa nói tới khía cạnh đạo đức và tình người, mà chỉ căn cứ vào mệnh lệnh của Giáo Luật, thái độ không dứt khoát hay cố tình tránh né trách nhiệm ấy khó có thể biện minh dù bằng bất cứ lý lẽ nào. Chẳng những thế, thái độ ấy còn làm cho niềm tin bị giao động và lung lay tận gốc.” Không
biết trong hàng ngũ các giám mục Việt Nam, đã có bao nhiêu vị chịu
dành thì giờ nghiên cứu các tài liệu Công Đồng Vatican II và giáo
luật hiện hành liên quan đến quyền hạn và trách nhiệm của HĐGM như
Lê Thiên đã làm. Nếu không ai chứng minh được là Lê Thiên sai, thì
nay các tín hữu Công Giáo đã có cơ sở để đánh giá lập trường và thái
độ các giám mục Việt Nam trước những vấn đề thời sự nóng bỏng của
đất nước và Giáo Hội. Kết
luận Sài
Gòn, ngày 28 tháng 08 năm 2010 Phỏng
vấn Linh mục Chân Tín về một số vấn đề Bài
liên hệ: - Phỏng vấn Linh mục Chân Tín về một số vấn đề của GHCGVN |