Mọi người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới, bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác theo sự lựa chọn của mình (Điều 19,2 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Liên Hiệp Quốc biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982). (Everyone shall have the right to freedom of expression; this right shall include freedom to seek, receive and impart information and ideas of all kinds, regardless of frontiers, either orally, in writing or in print, in the form of art, or through any other media of his choice.)

Ngay từ cuối năm 1986, tình hình vùng biển Đông, đặc biệt là khu vực quần đảo Trường Sa có nhiều diễn biến phức tạp do các hoạt động do thám, khiêu khích của hải quân Tàu cộng. Cuối tháng 2-1988, lực lượng ngoại bang này tăng thêm 4 tàu hộ vệ trang bị tên lửa và đại pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa. Trước tình hình ấy, bộ tư lệnh hải quân Hà Nội mở chiến dịch bảo vệ chủ quyền các đảo của Việt Nam, lấy tên là chiến dịch CQ (chủ quyền)-88.

Vào sáng ngày 14-3-1988, 73 chiến sĩ hải quân, đúng ra là công binh (không mấy lúc cầm súng) của tàu HQ 604 đến đảo đá nửa chìm nửa nổi Gạc Ma, mang theo vật liệu xi măng, cốt thép và các cột bê tông đúc sẵn để xây dựng công sự trên đó, ngõ hầu xác nhận rõ rệt chủ quyền. Về khí giới, họ chỉ mang theo một số khẩu AK, nhưng lại có quân lệnh là không được nổ súng. Chiến hạm Tàu cộng ùa tới, vây chặt. Sau một hồi trao đổi trên loa mà bên nào cũng cho mình có chủ quyền, rốt cục các chiến sĩ công binh VN không vũ trang đang đứng trên đảo đã trở thành bia hứng đạn đại liên của kẻ thù mà trước đó vẫn ngỡ là bạn. Chỉ chưa đầy nửa giờ, 64 người đã vĩnh viễn nằm xuống trong nỗi tức tưởi và uất hận. Con tàu vận tải HQ-604 rỉ sét đang thả neo giữa biển cũng đành phơi bụng lãnh đủ lửa pháo 100 ly từ mấy chiếc khu trục tối tân, trang bị cả tên lửa đối hạm. Quả như câu đối tưởng niệm đầy chua chát của ai sau đó: "Cướp Gạc Ma, bắn tàu bạn, xưng danh tình đồng chí! Trấn Len Đảo, giết mạng người, kêu tiếng tình anh em!". Sau khi 64 người bị thảm sát, 9 chiến sĩ còn lại được tàu Trung Quốc vớt lên làm tù binh và đem về tỉnh Quảng Đông giam giữ gần 4 năm trời.

Đúng là một cuộc chiến bi thương, không cân sức, nhưng những người lính đã ngã xuống trong lòng biển quả đã vị quốc vong thân, xứng danh hiệu anh hùng của Dân tộc và đáng được vinh danh ngàn đời. Thế nhưng, lại có lắm điều ô nhục xoay quanh biến cố ấy, kể từ đó đến nay, những ô nhục chỉ có trong cái chế độ vô đồng bào, vô tổ quốc là chế độ Việt cộng.

Ô nhục thứ nhất: không cho chống trả quân thù: Khi tình hình trở nên hết sức căng thẳng đầu năm 1988, Bộ Tư lệnh hải quân đã liên tục báo cáo lên trên xin ý kiến chỉ đạo. Một trong những nội dung đề nghị cấp trên giải đáp ngay là: Trung Quốc là thù hay là bạn? Chúng đánh ta, ta có đánh trả không? Bộ Chính trị và bộ quốc phòng lúc ấy vẫn im lặng hay trả lời không rõ rệt. Ấy là vì chính vào thời điểm đó, trong lúc bọn bành trướng Tàu cộng đã lộ rõ dã tâm xâm lược thì lãnh đạo Hà Nội, dưới sự thao túng của Lê Đức Anh, Ủy viên BCT, Bộ trưởng Quốc phòng, đang tìm cách bắt tay với lãnh đạo Bắc Kinh để âm mưu thực hiện cái gọi là “Giải pháp đỏ” ở Căm-pu-chia nhằm đưa cả bọn Khơ-me đỏ vào chính phủ liên hiệp mặc dù Nhà nước hợp pháp xứ Chùa tháp phản đối quyết liệt. Thành thử các chiến sĩ hải quân đã ra tiền tuyến bảo vệ Tổ quốc mà lại không được quyền nổ súng chống giặc.

Về chuyện này, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một nhà ngoại giao kỳ cựu, am hiểu sâu sắc vấn đề Trung Quốc, đánh giá quyết định không nổ súng của Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh như sau (theo RFA 12-03-2015): “Tôi cho rằng lúc bấy giờ ông Lê Đức Anh được đưa lên làm Bộ trưởng Quốc phòng mà làm cái việc như thế là một việc phản quốc. Ra lệnh không được bắn lại để cho Trung Quốc nó giết chiến sĩ của mình như là bia sống thì tôi cho đó là một hành vi phản động, phản quốc. …Tôi lấy làm đau lòng lắm và cho là một nỗi nhục của đất nước”.

Ô nhục thứ hai: không dám nhắc đến tên quân thù: Sau nhiều năm im lặng, ngày 9-5-2010, lễ tưởng niệm các tử sĩ Gạc Ma đã được tổ chức trên biển gần quần đảo Trường Sa. Điều đáng lưu ý là trong diễn văn tưởng niệm, Thượng tá Trịnh Lương Vượng, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn M46 vùng D Hải quân đã không dám nói thẳng nói thật là hải quân Tàu giết hại hải quân Việt. Thay vào đó ông đã dùng từ “nước ngoài” và “lực lượng quân sự nước ngoài”: “Lực lượng quân sự nước ngoài đã ngang nhiên chiếm đóng một số bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam… Các chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh trước sự tấn công trắng trợn và phi lý của các lực lượng tàu chiến hải quân nước ngoài”. Báo Thanh Niên ngày 14-03-2011 cũng cho biết Đại tá hải quân Nguyễn Kiều Kinh đứng trên mảnh đất thuộc chủ quyền VN, đọc diễn văn thay cho 14 Ủy viên Bộ Chính trị, cũng thản nhiên nói : «Với mưu đồ thôn tính Trường Sa, độc chiếm biển Đông, từ cuối năm 1987, đầu năm 1988, nước ngoài đã ngang nhiên đưa lực lượng quân sự chiếm đóng một số bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của VN…». Đúng là chỉ có bọn khiếp nhược trước kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc mới có giọng điệu như thế.

Ô nhục thứ ba: không cho nhắc tới trận chiến và các tử sĩ: Sau khi trận chiến trên đảo Gạc Ma kết thúc với chỉ một người bị thương về phía Tàu cộng, họ đã vinh danh một đặc nhiệm hải quân tên Du Xiang Hou, kẻ đã xé bỏ lá cờ đỏ sao vàng trên đảo. Họ làm phim giáo dục con cháu về trận chiến mà đối với họ là một chiến thắng vẻ vang kiêu hùng. Và họ xem đó là bằng chứng không thể chối cãi về chủ quyền của họ trên đảo Gạc Ma. Vậy mà đã 27 năm nay tại Việt Nam, cuộc chiến này bị né tránh không nói đến, đặc biệt trong các tài liệu chính thức và trong sách giáo khoa sử, như thể đó là một phần lịch sử cần được giấu nhẹm. Có lẽ trận chiến Gạc Ma chẳng phải là một vết son trong Việt sử như những chiến thắng của đội quân Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ, tuy nhiên nhân dân vẫn cần một lịch sử thật hơn là một lịch sử đẹp.

Ngoài ra, người Việt ở miền Nam trước đây hay khắp thế giới hiện giờ, ai cũng biết thiếu tá hải quân VNCH Ngụy Văn Thà, nhiều kẻ nhớ cả ngày ông tử trận: 19-01-1974. Tên tuổi vị anh hùng ấy (cùng với các chiến hữu tử sĩ) vang dội ngay sau khi chiến hạm Nhựt Tảo bị Tàu cộng đánh chìm. Nhưng người Việt sống dưới chế độ cai trị cộng sản mấy ai biết tên tuổi 64 chiến sĩ đã ngã xuống và 9 chiến sĩ đã bị bắt tại Trường Sa? Đó là chưa kể những kỷ niệm cuộc chiến năm xưa của họ không được trân trọng. Như vào tháng 9-2011, một cuộc gặp mặt lần nhất 8 chiến sĩ còn sống đã được tổ chức tại nhà nghỉ Suối Lương, Đà Nẵng, song không phải do nhà nước mà do Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa. Nhưng chả hiểu sao đến sáng ngày khai mạc chỉ còn lại ba người, năm anh đã lặng lẽ bỏ về tối hôm trước. Ban tổ chức lại còn quy định là người tham dự không được trực tiếp tiếp xúc hay phỏng vấn các nhân chứng. Thảm hại hơn nữa, tổng số người tham dự, tính luôn ban tổ chức, thành phần khách mời (không có đại diện chính quyền), an ninh và nhà báo …chỉ khoảng 30 mạng. Chưa hết, ngày 14-3-2012, nhà cầm quyền và hải quân dự tính tổ chức một cuộc gặp mặt 34 gia đình liệt sĩ Gạc Ma tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Tất cả mọi việc đã hoàn tất, giấy mời đã được đem gởi. Đùng một cái, trước đó 3 hôm (11-3-2012), có “lệnh trên” yêu cầu hủy cuộc gặp mặt. Một nhà báo đã thốt lên cay đắng: "Chẳng lẽ đi lừa phỉnh các mẹ liệt sĩ? Giỗ anh em hy sinh mà không dám tổ chức sao? Khóc anh em hy sinh cũng không được phép à?” (RFA 20-03-2012). Mới hôm qua thôi (14-03-2015), hoạt động tưởng niệm của một số người dân Hà Nội tại tượng đài vua Lý Thái Tổ đã bị quấy rối bởi một đám dư luận viên trẻ, do bị đảng đầu độc và được công an bảo vệ; hoạt động tưởng niệm tại Sài Gòn thì lại bị lực lượng công an giám sát chặt chẽ còn báo chí chính thống im lặng làm lơ.

Ô nhục thứ tư: Không đi tìm xác chiến sĩ tử trận và đãi ngộ các chiến sĩ còn sống: Ngày 22-12-2008, báo Tuổi Trẻ và Tiền Phong điện tử có loan tin rằng trong khi đánh bắt hải sản ở gần đảo Gạc Ma, một số ngư dân phát hiện và vớt được hài cốt của bốn chiến sĩ đã hy sinh tại đó và giao cho hải quân. Hải quân đã đưa bốn bộ hài cốt liệt sĩ nói trên về đất liền, làm lễ tưởng niệm tại đoàn M29. Thế nhưng, ngay trong ngày, cả hai tờ báo đã gỡ tin này xuống. Chả biết thực hư ra sao? Mà mãi cho tới hôm nay, nhà cầm quyền VN vẫn chưa cho tiến hành tìm kiếm, thu gom hài cốt hơn sáu chục binh sỹ bị chìm trên bãi đá ngầm đó. Bộ Quốc phòng chẳng có một cố gắng nào mang họ về đất liền như tất cả mọi quân đội khác trên thế giới. Ông Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Minh Triết chua chát nhận định (RFA 12-03): “Cho đến hôm nay 64 anh hùng liệt sĩ ở Gạc Ma nhiều người xác vẫn còn nằm dưới biển và cái ông Nông Đức Mạnh nguyên Tổng bí thư lại trả lời rằng thôi cứ để yên như thế! Đáng lẽ anh phải can thiệp với Chữ Thập Đỏ quốc tế để tìm cách vớt và đưa thân xác của các liệt sĩ ấy về quê mẹ thì anh lại để im, bởi vì anh sợ Tàu mà. Động chạm đến Tàu thì anh run lên vì anh bị cầm tù rồi”.

Về các chiến sĩ Gạc Ma còn sống, mãi tháng 10-2009, báo VietnamNet mới đăng bài về anh Trương Văn Hiền và cho biết anh sống rất nghèo tại thôn 3 xã Hòa Thắng, Buôn Mê Thuột, bản thân lại có trở ngại về sức khỏe với vết thương ở sườn và cánh tay trái. Phóng viên Quốc Nam, trong bài “Những người lính Gạc Ma bây giờ” (báo Tuổi Trẻ 13-03-2015) cho hay rằng sau trận chiến bảo vệ đảo Gạc Ma, những người lính còn sống trở về như anh Nguyễn Bá Ngọc và anh Mai Xuân Hải tại Quảng Bình vẫn sống trong cùng cực với bệnh tật.

Ô nhục thứ năm: mãi tin quan hệ Việt-Trung tốt đẹp: Tất cả những điểm ô nhục nói trên liên quan tới Gạc Ma, Trường Sa, có lẽ phải nói là xuất phát từ niềm tin mù quáng hay hy vọng hão huyền nơi lãnh đạo Cộng sản Hà Nội rằng quan hệ Việt-Trung sẽ mãi mãi tốt đẹp. Niềm tin mù hay hy vọng hão này dựa trên chuyện Việt cộng đã phải gắn bó với Tàu cộng quá ư lâu dài: từ quá khứ (nơi Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ), đến hiện tại (nơi Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng) và cả tương lai (nơi nhân sự sau đại hội đảng lần thứ 12 vốn được Tàu cộng chọn lựa); qua những sợi dây ngày càng thít vào họng: ân tình giúp cướp miền Nam và món nợ chiến phí khó trả nổi, sự lệ thuộc vào chính trị, kinh tế, tài chánh, văn hóa, sự cam kết hết sức dại dột tại Thành Đô sau cơn hoảng loạn vì Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, và nhất là bàn tay Trung Nam Hải che chở cho Ba Đình tiếp tục thống trị dân Việt. Có thể có lúc, có kẻ trong lãnh đạo Hà Nội nghĩ tới mối nhục đó, nhưng cái khát vọng vô độ về quyền lực và của cải trên đất Việt làm chúng sẵn sàng bán nước và trở thành vô liêm sỉ.

Hỡi tử sĩ Gạc Ma, các vị vẫn mãi là những oan hồn và nỗi nhục Trường Sa vẫn mãi còn đó bao lâu đất Việt còn nòi Cộng sản!

Ban Biên Tập (số 215 ngày 15-3-2015)
-Nhấn vào Link này để "download" (save as) Bán nguyệt san TDNL ở dạng (format): .doc, sẽ chậm (xin kiên nhẫn!), nếu bạn không sử dụng đường dây cao tốc Internet DSL, nhưng toàn bộ mỗi số báo 32 trang sẽ giữ dạng nguyên thủy, như là 1 file duy nhất: http://www.tdngonluan.com/pdf/TuDoNgonLuan_So215_15March2015.doc
....................................................................................................

Chân    thành    cảm    tạ    qúy    vị    ghé    thăm    trang    nhà    website    Tự    Do    Thông    Tin    Ngôn    Luận    cho    toàn    dân    Việt Nam

Copyright © 2006 www.tdngonluan.com/Email: witness2005@gmail.com/Webmaster: legraphic@yahoo.com - All rights reserved.