“Mọi
người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới,
bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật,
hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác theo sự
lựa chọn của mình”(Điều
19,2 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Liên Hiệp Quốc
biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982).(Everyone
shall have the right to freedom of expression; this right shall include
freedom to seek, receive and impart information and ideas of all kinds,
regardless of frontiers, either orally, in writing or in print, in the
form of art, or through any other media of his choice.)
Tam Tòa là một giáo xứ Công giáo, nằm trong
thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, với ngôi nhà thờ chính tọa lạc
bên bờ sông, giữa cầu Nhật Lệ và cửa biển Nhật Lệ. “Nhật Lệ” nguyên
nghĩa là “sự rực rỡ của ánh sáng mặt trời” vì đó là nơi đầy ánh nắng
(Wikipedia). Nhưng nếu hiểu nôm na là “nước mắt đổ từng ngày” thì
cũng thích hợp với cái giáo xứ tại đây.
Quả thế, ngay từ khi được thành lập vào tiền bán thế kỷ 17 với tên
nguyên thủy là Họ Lũy, vì gần Lũy Thầy, sau mang tên Sáo Bùn vì chạy
về vùng ngư nghiệp Phú Hải, giáo xứ Tam Tòa nói riêng và giáo dân
Quảng Bình nói chung đã phải chịu bách hại khi chúa Nguyễn Phúc Chu
(1675-1725) bắt đầu cấm đạo vào những năm cuối thế kỷ 17, đầu thế
kỷ 18. Sang thời các vua triều Nguyễn như Tự Đức (1829-1883), họ tiếp
tục chịu bắt bớ và đã để lại cho Giáo hội Công giáo nhiều vị tử đạo
thời danh. Năm 1886, quân Văn Thân đột kích giáo xứ Sáo Bùn, giết
chết 52 giáo dân, đốt phá nhà thờ, khiến số giáo dân còn lại phải
chạy về Đồng Hới lánh nạn và từ đây mang hẳn tên Tam Tòa. Ngôi nhà
thờ đầu tiên của họ được xây dựng năm 1887 và đến năm 1940 thì được
tái thiết khang trang và hoàn chỉnh với nền nhà rộng và ngôi tháp
lớn như còn lưu dấu bây giờ.
Khi Việt Minh cầm quyền, chính giáo xứ Tam Tòa là nơi náu thân của
các linh mục, tu sĩ và thanh niên Công giáo ở Hà Tĩnh và Nghệ An chạy
trốn bạo lực Cộng sản, nhất là trong những năm khủng bố hoạn nạn từ
1947 đến 1954. Thành ra, sau khi đất nước chia đôi, phần lớn giáo
dân Tam Tòa đã phải bỏ vào Nam vì chọn lấy tự do và để giữ gìn đức
tin của họ. Riêng số ít oi ở lại thì đã trở thành đối tượng trả thù
của nhà cầm quyền Cộng sản. Trong lòng giáo dân Quảng Bình nói chung
và Tam Tòa nói riêng, còn in mãi hình ảnh hãi hùng của những cuộc
đàn áp mà hai kẻ chủ mưu không ai khác là Hồ Chí Minh và Nguyễn Sĩ
Đồng. Sự đàn áp quá dữ tợn khiến giáo dân chực nổi loạn nên Nguyễn
Sĩ Đồng được Hồ Chí Minh gọi ra bắc, đổi tên là Đồng Sĩ Nguyên rồi
điều đi Trường Sơn năm 1967 (nay ông ta là trung tướng hồi hưu). Ngôi
nhà thờ Tam Tòa xinh đẹp bị phá năm 1968 cũng không nằm ngoài kế hoạch
báo thù giáo dân và tiêu diệt Giáo hội của CS. Qua việc đặt súng,
nhất là súng phòng không, bên trong hoặc bên cạnh nhà thờ và treo
cờ đỏ trên nóc tháp chuông, CS đã mượn bàn tay Hoa Kỳ (phi cơ và pháo
hạm) để tàn phá ngôi nhà thờ này cùng với nhà thờ Cầu Rầm giữa lòng
thành phố Vinh và nhà thờ chính tòa ở vùng quê thuộc xã Nghi Diên
(tên thường gọi là xã Đoài), huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (Đan viện
Thiên An ở Huế và Nhà thờ La Vang tại Quảng Trị cũng cùng chung số
phận năm 1968 và 1972). Một nguồn tin khác thì cho rằng chính CS đã
đặt chất nổ phá hủy nhà thờ Tam Tòa vào ngày 27-02-1968 cùng với chùa
An Xá thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình để đổ tội
cho Đế quốc Mỹ!
Sau năm 1975, với não trạng vô thần chiến đấu không hề lay chuyển,
CS đã tìm cách xóa dấu vết tôn giáo, nhất là Công giáo, ở nơi đâu
có thể xóa được. Và Tam Tòa là một trong những “đối tượng ưu tiên”
xét vì sức mạnh đức tin và tinh thần chống Cộng vốn từng thấm đẫm
chỗ đó. Rồi cộng thêm não trạng vô thần hưởng thụ, nhà cầm quyền tỉnh
Quảng Bình và thành phố Đồng Hới chẳng những không trả lại nền nhà
thờ Tam Tòa (vốn ở vào một vị trí rất mát, rất đắt, rất đẹp) để Giáo
hội tái xây dựng, mà còn chiếm nhiều cơ sở mục vụ chung quanh, đem
chia chác cho nhau hoặc biến thành những công trình khác, góp phần
làm nên khu phố “Khân dông”, tức không dân, cách nói ngược để chỉ
con phố toàn nhà cửa quan chức CS. Ngoài ra, từ năm 1997, khi phong
trào làm ăn kinh tế và phát triển du lịch dâng cao, không hề hỏi ý
kiến Tòa Giám mục Vinh, nhà cầm quyền CS đã tự tiện biến Nhà thờ Tam
tòa thành “Chứng tích tội ác của đế quốc Mỹ” và đặt nó làm một chặng
tham quan có bán vé trong “tour du lịch thăm viếng di tích chiến tranh
ở miền Trung” cho khách ngoại quốc (gồm căn cứ Khe Sanh, cầu Hiền
Lương, tức Bến Hải, và nhà thờ Tam Tòa). Đang khi chùa An Xá, huyện
Lệ Thủy, vốn cũng bị phá cùng ngày, lại được “miễn” khỏi số phận “chứng
tích tội ác” ấy! Đó là vì khách du lịch ngoại quốc đa phần là người
Tây phương, theo Kitô giáo, nên một ngôi nhà thờ Công giáo đổ nát
vì “bom Mỹ” dễ thu hút và kích động. Hơn nữa, ông Phó Chủ tịch Thường
trực UBND tỉnh Quảng Bình là người có phần hùn trong công ty du lịch
“DMZ (Demilitarized Zone, vùng phi quân sự), Khe Sanh & Phong
Nha” vốn phụ trách “tour” này. (theo Vietland).
Biết ý đồ phá đạo và hám tài ấy, Giáo phận Vinh từ mấy mươi năm nay
đã muốn đòi lại vật sở hữu thiêng liêng của mình. Có lúc Giáo phận
đã tỏ ra nhịn nhường bằng cách thuận đổi một nơi khác tương đương
trong thành phố Đồng Hới để làm chốn thờ phượng cho gần 1000 tín hữu.
Thế nhưng với thói gian manh cố hữu, nhà cầm quyền CS một mặt đã không
chấp nhận địa điểm do Giáo quyền đề nghị, mặt khác lại giới thiệu
5 địa điểm ở vùng thôn quê, giữa ruộng đồng, thậm chí không có đường
đi vào nữa. Thế là như tại Tòa Khâm Sứ, Giáo xứ Thái Hà, Giáo xứ An
Bằng, Dòng Phaolô Vĩnh Long, dòng Thánh Gia Long Xuyên, dòng Mến Thánh
Giá Thủ Thiêm… hôm 20-07 mới rồi, Giáo phận Vinh và Giáo xứ Tam Tòa
đành phải thực thi quyền làm chủ của mình, nhất là quyền làm chủ những
đất đai cơ sở thờ tự vốn là quyền tư hữu thiêng liêng, chính đáng
mà đảng CS đã ngang nhiên tước đoạt của toàn dân từ ngày nó thống
trị đất Việt. Và cũng như tại các địa điểm nói trên, CS đã huy động
toàn thể bộ máy của mình vào cuộc, từ bộ máy đàn áp tàn bạo của công
an, bộ máy tuyên truyền dối trá của báo chí đến bộ máy dụ dỗ lừa gạt
của Mặt trận và bộ máy vận động hỏa mù của ngoại giao.
Một điều đáng lưu ý là từ vụ Tòa Khâm sứ trở đi, CS chơi trò ném đá
giấu tay trong các cuộc đàn áp bằng cách tạo ra nhóm “quần chúng bức
xúc”, “nhân dân tự phát” luôn sẵn sàng chửi bới các tín đồ, các tu
sĩ, xúc phạm chốn thiêng thánh, bạo hành với cả người già lão, phụ
nữ và trẻ thơ vô tội. Thực chất đây chỉ là công an trá hình hoặc là
hạng nghiện ngập hay thất nghiệp được thuê mướn, chứ chưa hẳn là bọn
đầu gấu, xã hội đen, tay anh chị. Hạng sống ngoài vòng pháp luật này
không dại gì giao tiếp với những kẻ “đại diện pháp luật” trên danh
nghĩa, không dễ gì phục vụ cho cơ quan công quyền để dùng bạo lực
với dân lành, nhất là dân có tín ngưỡng, ngay cả nặng lời với họ chúng
cũng tránh vì chính chúng ít nhiều đều có tín ngưỡng. Rồi với tính
yêng hùng, sĩ khí giang hồ, chúng hiếm khi mạnh tay với người già,
phụ nữ và trẻ nhỏ. Ngoài ra, những băng đảng xã hội đen không thể
có quân số đông đảo, lên tới cả trăm như trong các vụ việc từ Hà Nội
đến Quảng Bình và nhiều nơi khác. Ngược lại, nhà cầm quyền cũng chẳng
dại gì sử dụng những tay xã hội đen bởi chúng là con dao hai lưỡi,
không thể kiểm soát được; lỡ có tên nào nổi hứng kể về chiến tích
mà nhà nước thuê chúng thực hiện ngoài quán nhậu thì làm sao bưng
bít nổi. Thành ra, như tại các nước CS khác trước đây, công an luôn
mang sẵn trong mình máu tàn bạo và óc mù quáng vì họ đã được đào tạo
không phải trở thành “bạn dân” mà là tôi tớ (hay theo kiểu nói của
Lê Duẩn) là chó săn của đảng.
Trở lại với các nạn nhân và thân hữu của họ (tức là mọi tín đồ Công
giáo, đặc biệt tại Giáo phận Vinh), Cộng sản không ngờ đã gặp phải
“ổ kiến lửa”. Tinh thần của một Liên Đoàn Công Giáo Nghệ Tĩnh Bình,
Nhà Chung Xã Đoài, của một Trang Nứa, Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Cầu Rầm,
Cẩm Xuyên, Vạn Lộc, Thuận Nghĩa, Hướng Phương, Đông Yên… năm nào vẫn
còn đó. Những bản thông báo thẳng thắn rõ ràng của Tòa Giám mục, những
lời tuyên bố không chút sợ hãi của chủ chăn lẫn con chiên Tam Tòa,
những cuộc tụ họp cầu nguyện rồi tuần hành tại mỗi Giáo hạt của hàng
chục ngàn tín hữu, những chuyến thăm viếng tức thì và can đảm đến
nơi bị nạn của vô số đoàn thể và cá nhân, những thái độ vừa hiền lành
vừa anh hùng của những linh mục và giáo hữu bị đánh đập, những đòi
hỏi mạnh mẽ và quyết liệt của các chức sắc thẩm quyền Giáo phận, những
cuộc trả lời phỏng vấn đầy khí phách của các giáo dân bị bắt được
thả, những cuộc hiệp thông cầu nguyện và lên tiếng phản đối nhiều
vô kể từ trong lẫn ngoài nước…. tất cả đã và đang làm cho nhà cầm
quyền cộng sản địa phương lẫn trung ương lúng túng, làm cho báo đài
nhà nước, vốn chỉ biết viết theo chỉ thị, không cần điều tra thực
địa, suy nghĩ đúng sai, phen này phải ê mặt vì bị lột mặt nạ “công
cụ đê hèn”, làm cho giới công an từ lâu hung hăng, tưởng đè ép nhân
dân dễ dàng như chà con kiến, như bẻ chiếc đũa, nay hẳn phải e dè.
Thông tin mới nhất cho thấy Cộng sản có vẻ chùn tay, vì đã phái những
viên chức cao cấp đến làm việc với Giáo quyền, đã thả 4 trong 7 người
bị khởi tố và nhiều tín hữu bị tạm giam, đã nghe những đòi hỏi của
Linh mục Tổng đại diện mà không (hay chưa) có lời phản bác. Tuy nhiên,
vốn mang bản chất gian manh và luôn có chiến lược lùi một bước tiến
hai bước, CS không bao giờ có thiện chí, đáng tin tưởng hay biết phục
thiện. Thành ra, Tòa Giám mục Vinh cần tiếp tục đưa ra những đòi hỏi
ngày càng căn bản: không chỉ buộc “bồi thường tại chỗ lán che
của giáo xứ Tam Tòa, trả lại Thánh giá, trả lại tài sản của Giáo hội
và tài sản của giáo dân” mà còn buộc trả lại nhà thờ Tam Tòa,
rồi mọi cơ sở tôn giáo đã bị cướp đoạt, rồi là quyền tư hữu về đất
đai; không chỉ buộc “dừng ngay việc xuyên tạc sự thật, bôi nhọ
tôn giáo, kích động hận thù, gây chia rẽ khối đoàn kết lương giáo”
(Thông cáo số 4) mà còn buộc trả lại quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận, tự do hội họp, tự do tôn giáo… Phải làm sao cho ngọn lửa Tam
Tòa bùng lên thành biển lửa, từ đấy rực lên ánh sáng của mặt trời
tự do, phải đẩy cuộc đấu tranh cho tới cùng trong tinh thần bất bạo
động, xóa sổ cho được chủ nghĩa và chế độ CS, hất cẳng cho được đảng
CS (nếu nó không thay đổi, mà nó có khi nào thay đổi không?). Bằng
không thì dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục “nhỏ lệ từng ngày”.