“Mọi
người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới,
bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật,
hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác theo sự
lựa chọn của mình”
(Điều
19,2 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Liên Hiệp Quốc
biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982).
(Everyone
shall have the right to freedom of expression; this right shall include
freedom to seek, receive and impart information and ideas of all kinds,
regardless of frontiers, either orally, in writing or in print, in the
form of art, or through any other media of his choice.)
|
D
I Ễ N Đ À N Trong cuộc sống của loài người, có nhiều mối dây liên kết diễn tả qua chữ “đồng”, như đồng môn, đồng hương, đồng đạo, đồng nghiệp…, nhưng có lẽ hai mối dây liên kết được người Cộng sản đề cao nhiều nhất là đồng bào và đồng chí, không những tại Việt Nam mà ở toàn thể các nước phe xã hội chủ nghĩa. Ta hãy nghe lại một đoạn trong lá thư của ông Hồ Chí Minh viết vào tháng 10-1944: “Toàn quốc đồng bào! Toàn thể đồng chí! Tháng 8 năm 1942, tôi vâng lệnh Đoàn thể đi cầu ngoại viện. Chẳng may gặp sự hiểu lầm ở ngoài, làm cho đồng bào, đồng chí lo phiền cho tôi hơn một năm giời. Vậy, một mặt thì tôi phải thừa nhận vì tôi hành động không đủ khôn khéo để đồng bào, đồng chí phải phiền lòng, một mặt thì tôi rất cảm ơn lòng thân ái của đồng bào, đồng chí đối với tôi. Trong sự rủi lại có sự may. Nhân dịp ở ngoài mà tôi hiểu rõ tình hình thế giới và chính sách của các hữu bang, trước hết là Trung Quốc. Nay tôi mang về cho đồng bào, đồng chí một món quà cực kỳ quý báu, tức là lòng đồng tình sốt sắng của 450 triệu đồng bào Trung Quốc đối với 25 triệu đồng bào Việt Nam về cái tin Trung Quốc sẽ tích cực giúp đỡ cuộc dân tộc giải phóng của chúng ta….” (Hồ Chí Minh toàn tập, t.3). Ngoài ra, ông Hồ còn vô số thư gởi đồng bào các giai tầng, các sắc tộc và các tôn giáo. Sau cuộc chia đôi đất nước, ông ta lại luôn nói về đồng bào miền Nam. Tác giả Phạm Thị Thắng, trong bài “Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà”, có kể câu chuyện như sau: “Năm 1962, đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu đến thăm Bác. Hôm đó đoàn tặng Bác rất nhiều quà quý… Khi nhận quà, Bác rất xúc động, một đồng chí trong Ban bí thư Trung ương thưa với Bác: “Thưa Bác, Bác có quà gì tặng miền Nam không ạ?”. Tất cả mọi người hồi hộp chờ đợi xem Bác tặng quà gì cho miền Nam. Bác vẫn đứng im nhìn mọi người âu yếm, rồi Bác nói: “Bác chẳng có cái gì để tặng cho đồng bào miền Nam cả. Bác chỉ có cái này”. Bác đặt tay lên ngực của mình, nơi con tim đang đập và nói: “Quà Bác tặng cho đồng bào và chiến sĩ miền Nam đây! Hình ảnh miền Nam yêu quý luôn luôn trong trái tim tôi”. Ngỡ như lãnh tụ CS họ Hồ chỉ có hai tâm tình sâu đậm là tình đồng chí và tình đồng bào! Thế nhưng chính con người ấy lại đã ra tay tàn độc đối với các đồng chí thân thiết: nào thủ tiêu những người từng là cộng tác viên đắc lực hay từng vào sinh ra tử với mình như chiến hữu Lâm Đức Thụ, đại biểu Dương Bạch Mai, đại tướng Nguyễn Chí Thanh… nào tống vào tù đại công thần đã đem cả cuộc đời hi sinh chiến đấu dựng lên đảng và nhà nước cộng sản: người hùng Điện Biên Phủ tướng Đặng Kim Giang, nhà cách mạng tiền bối kiêm thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh, viện trưởng viện triết học Mác-Lênin Hoàng Minh Chính... nào đày đọa cho đến chết những nhà trí thức uyên bác đã theo mình về nước làm cách mạng: tiến sĩ Trần Đức Thảo, luật sư Nguyễn Mạnh Tường... hay những văn nhân nghệ sĩ đã từng phục vụ chế độ và tô hồng xã hội cộng sản trong nhóm Nhân văn Giai phẩm. Chưa kể biết bao đồng chí và đồng đảng CS đã là nạn nhân của chính lãnh tụ tàn độc có một không hai này. Còn đối với đồng bào ruột thịt miền Bắc thì Hồ Chí Minh đã ra lệnh tàn sát trực tiếp và gián tiếp nửa triệu điền chủ và nông dân trong cuộc Cải cách Ruộng đất (trong đó có bà Cát Hanh Long là đại ân nhân của đảng), đối với đồng bào ruột thịt miền Nam thì hàng vạn vạn dân thường đã chết trong cái gọi là “cuộc chiến tranh giải phóng”, đặc biệt trong cuộc tổng công kích tết Mậu Thân mà chính Hồ Chí Minh phát động. Đang khi đó, bên các “nước anh em”, Lênin, Stalin và Mao Trạch Đông cũng mở những cuộc đại thanh trừng đối với các đồng chí thân thiết, đại tàn sát đối với các đồng bào thân yêu mà con số nạn nhân phải tính là hàng chục triệu (nói chung, các lãnh tụ CS đã đưa về chín suối 100 triệu đồng bào của mình). Chưa nói đến chuyện cùng chung lý tưởng Cộng sản, nhưng các đồng chí Đệ III Quốc tế đánh nhau chí tử với các đồng chí Đệ IV Quốc tế, các đồng chí Liên Xô đánh nhau chí tử với các đồng chí Trung Hoa, với các đồng chí Nam Tư; đến lượt các đồng chí Trung Hoa đánh nhau chí tử với các đồng chí Việt Nam, các đồng chí Việt Nam lại đánh nhau chí tử với các đồng chí Khmer đỏ…. Những kẻ kế tục Hồ Chí Minh cho đến hôm nay cũng không làm gì khác. Điển hình là Lê Đức Thọ và phe cánh đã thủ tiêu các đồng chí như đại tướng Lê Trọng Tấn năm 1986, đại tướng Hoàng Văn Thái cũng năm 1986, thượng tướng Đinh Đức Thiện (em ruột của Thọ) năm 1987, trung tướng Phan Bình cũng năm 1987… Mới đây là thượng tướng Phạm Quý Ngọ cũng bất ngờ qua đời, mà dư luận cho rằng đã bị các đồng chí thủ tiêu để bịt đầu mối, chỉ một ngày sau khi có quyết định sẽ điều tra và khởi tố việc Ngọ nhận 1.5 mỹ kim từ Dương Chí Dũng. Ngoài ra còn bao nhiêu cuộc thanh trừng nội bộ, thủ tiêu đồng chí chưa bị lộ trong đảng Cộng sản. Đó là chưa kể vô vàn đồng chí chết trong trận chiến Biên giới 1979, trận chiến Gạc Ma 1988 mà đã bị chôn vùi ký ức, bị đục bia tưởng niệm, bị cấm cản truy điệu… Còn cái gọi là “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam” thực chất chỉ là cuộc tàn sát đồng bào (theo kế hoạch của Mao: đánh Mỹ cho tới người Việt cuối cùng để mở rộng đế quốc Tàu đỏ), khiến gần 4 triệu dân Việt ở cả hai miền phải tan thây. Rồi cái gọi là cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa (mà theo Nguyễn Phú Trọng thì tới cuối thế kỷ này chưa chắc đã thành công) thực chất chỉ là cuộc hăm dọa đồng bào tận mức, bóc lột đồng bào tận xương và đàn áp đồng bào tận lực. Hăm dọa đồng bào miền Nam tận mức qua chính sách kỳ thị ngụy quân ngụy quyền, chủ trương cải tạo tư sản, chương trình di dân kinh tế, kế hoạch chỉnh trang đô thị, khiến hàng triệu người phải điêu đứng cuộc sống vốn an lành, phải liều mạng vượt biên vượt biển ra hải ngoại. Bóc lột tận xương hàng triệu đồng bào công nhân trong các công ty xí nghiệp quốc doanh lẫn tư doanh, qua bàn tay của các chủ nhân nội quốc lẫn ngoại quốc được đảng o bế, của các công đoàn lao động được đảng điều khiển. Bóc lột hàng vạn đồng bào xuất khẩu lao động ra nước ngoài qua việc tước đoạt gia sản của họ để làm tiền ký quỹ, qua việc bỏ mặc thân phận của họ cho các đại gia cá mập nước ngoài. Bóc lột hàng triệu đồng bào nông dân qua điều khoản Hiến pháp chết tiệt và điều luật Đất đai trời đánh: “Đất đai thuộc về toàn dân do Nhà nước đại diện sở hữu”, qua những cuộc cấu kết giữa bộ máy nhà nước và tập đoàn kinh doanh (VN hoặc ngoại quốc) để đẩy các thường dân vô tội đến cảnh khốn cùng, xuống hố tuyệt vọng. Ta hãy nghe Nhóm phóng viên RFA tường trình trong bài “Đất Quảng Trị tràn ngập người Trung Quốc” ngày 03-03-2014: “Thời gian gần đây, hầu như mọi mảnh vườn ở làng Hà Tây, xã Triệu An, huyện Triệu Phong đều lâm vào nạn xâm lăng một cách trắng trợn của người Tàu và nhà cầm quyền địa phương. Nghĩa là khi người Tàu đến đây, việc đầu tiên họ làm là tìm đến các cơ quan, các quan chức để bằng mọi giá liên kết, đút lót và mua chuộc bằng được các quan chức này. Để rồi sau đó là những hành động xâm lăng…. Thay vì thỏa thuận với nhân dân để mua đất, người Tàu lại mua chuộc và biến quan chức địa phương thành tay sai của họ, các quan chức địa phương nghiễm nhiên trở thành con rối trong cuộn dây giật của người Tàu. Thay vì bảo vệ cuộc sống đồng bào và bảo vệ quyền lợi quốc gia, quan chức địa phương lại bằng mọi giá bảo vệ người Tàu, xem họ như những quan thầy. Và bất chấp nỗi tủi nhục, đau khổ của nhân dân, họ dùng thủ đoạn này đến thủ đoạn khác để biến đất canh tác, đất vườn của nhân dân thành công trình của người Tàu”. Đàn áp tận lực toàn thể đồng bào qua nền pháp chế hà khắc, bóp nghẹt mọi quyền tự do; qua những chủ trương chính sách vừa duy ý chí, vừa thậm ngu dốt, vừa vô hiệu quả; qua hệ thống cai trị vừa gian manh, vừa tham nhũng, vừa tàn bạo; qua bộ máy công an (và trợ thủ như dân phòng, côn đồ, đoàn thanh niên CS…) chỉ biết vâng lời mù quáng, hành hung tàn nhẫn, cướp đoạt thẳng tay. Sự mù quáng này sẽ càng gia tăng qua chế độ chính ủy cho ngành công an vừa được thành lập, sự tàn nhẫn này sẽ thêm tầm mức nhờ pháp lệnh mới ban hành cho phép bắn bỏ kẻ bị gọi là chống nhân viên công lực. Đàn áp tận lực toàn thể đồng bào qua hệ thống tư pháp gồm những điều tra viên, công tố viên và quan tòa chỉ biết cúi đầu tuân lệnh cấp trên từ trung ương hay địa phương, đặc biệt trong các vụ án chính trị xét xử các công dân yêu nước, hoặc chỉ biết nhắm mắt vâng lệnh đồng tiền đút lót trong nhiều vụ án kinh tế, hình sự… Rồi còn đàn áp đồng bào qua chủ trương trấn dẹp mọi cuộc biểu tình, xuống đường đòi công lý quyền lợi, đòi tự do dân chủ, đòi tưởng niệm tử sĩ, đòi chống lại ngoại xâm, bằng những cách thức hoặc tàn nhẫn hoặc thâm độc, đê tiện hoặc lố lăng… Thật ra, đối với người Cộng sản, chỉ có một dây liên kết quan trọng, đó là đồng lõa. Nghĩa là cùng chung tay làm chuyện bất lương, chung sức thực hiện tội ác, thường là đối với đồng bào bị trị của mình. Và bao lâu còn chia sẻ quyền lực lẫn chia chác quyền lợi với nhau, còn bao che cho nhau sai lầm lẫn tội lỗi (trước quốc dân lẫn quốc tế), thì còn song hành sánh bước, thì còn đồng chí đồng rận, thì còn tình quốc tế vô sản. Bằng chứng là lãnh tụ các nước cộng sản chỉ kết thân với nhau hay với lãnh tụ các nước độc tài, ôm hôn nhau thắm thiết khi gặp gỡ, bênh vực và bốc thơm nhau tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, viện trợ cho nhau tài lực vật lực bóc lột từ đồng bào của mình, đàn áp chính quốc dân đang tố cáo hay phản đối mưu đồ xâm lược của “nước lớn đại huynh”… để giúp nhau củng cố ngai quyền lực, ghế thống trị. Còn nếu tranh chấp quyền lợi, rắp tâm tố cáo lẫn nhau, hoặc tiểu đồng chí hết chịu nổi đại đồng chí thì thanh toán, thủ tiêu trong nội đảng, giữa hai đảng (như bao thí dụ trưng dẫn trên kia) hay rộng hơn thì gây chiến giữa hai quốc gia, hai dân tộc mà có thể đã từng thề thốt với nhau là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, từng đề cao với nhau chuyện “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, từng xưng tụng với nhau đặc tính “sơn thủy tương liên, văn hoá tương thông, lý tưởng tương đồng, vận mệnh tương quan”. Bất biết nghĩa đồng bào, tình đồng chí, một chỉ quan tâm đến mối đồng lõa, đó là bản chất của những con người cai trị, của những chính đảng lãnh đạo đặt quyền lợi của mình lên trên quyền lợi dân tộc, và dùng quyền lực của mình không phải để phục vụ mà là để bóc lột quốc gia đất nước. Và lịch sử nhân loại đã cho thấy Cộng sản chính là mẫu hình đặc trưng, tiêu biểu cho thực thể này. Ban
Biên Tập (số 191, ngày 15-3-2014) |