Cộng sản là một chủ nghĩa bất trí, một chế độ
bất nhân và là một đảng phái bất chính, nên luôn tìm phương bù trừ
mặc cảm tội lỗi hay trấn an lương tâm sai lạc bằng cách huyênh hoang
tuyên bố và làm cho ai nấy tin nhận nó là một chủ nghĩa khoa học,
một chế độ ưu việt và một đảng phái “của dân, do dân, vì dân”. Nó
cố gắng đạt mục đích này bằng một nền giáo dục nhồi sọ áp đặt lên
mọi thế hệ trẻ, một nền thông tin tuyên truyền áp đặt lên mọi giới
nhân dân, với công cụ hỗ trợ là bạo lực hành chánh và bạo lực vũ khí.
Đặc biệt và độc đáo hơn hết, Cộng sản dùng chính miệng lưỡi hay ngòi
bút của những ai từng phê bình, phản đối hoặc chống lại nó -hay đơn
giản chỉ là phàn nàn, rên rỉ về nó- và sau đó đã bị nó bắt, để rồi
họ bỗng nhiên đứng lên “tự nhận lầm sai”, “xưng thú tội lỗi”, “xin
được khoan hồng” đang khi còn trong vòng thẩm vấn, giữa tay công an,
hoặc thậm chí khi ra trước tòa án xét xử.
Lịch sử các đảng CS đã cho ta vô số bằng chứng về điều này. Nổi tiếng
nhất là những bằng chứng từ cuộc Đại Thanh trừng thời Staline (1937-1938)
mà sau đó đã được nhà văn gốc Hungari tên Arthur Koestler tiểu thuyết
hóa trong tác phẩm thời danh nhan đề ”Bóng tối giữa trưa” (Darkness
at noon, bản tiếng Anh) hay “Số không và vô biên ” (Le zéro et l’infini,
bản tiếng Pháp). Qua cuộc thanh trừng này, hàng ngàn đảng viên và
sĩ quan Liên Xô cao cấp -mà Staline cảm thấy đang và sẽ đe dọa quyền
lực tuyệt đối của ông- đã bị tay chân ông dùng vô số thủ thuật gian
manh và tàn bạo (như nhà báo Bùi Tín nói trong bài viết mới đây
“Ai tự thú vậy? Ai cần xin ân xá ?”) để buộc họ nhận những tội
lỗi -mà đa phần họ không hề phạm- ngay trong giai đoạn thẩm vấn hoặc
khi ra trước phiên tòa. Lạ một điều là phần lớn đã xin “được xử tử”
để đền tội chống lại lãnh tụ và chế độ !
Một bằng chứng cũng nổi tiếng không kém là cuộc “nhận tội” của Đức
Hồng y Joseph Mindszenty (1892-1975), giáo chủ Công giáo nước Hungari.
Bị nhà cầm quyền CS bắt năm 1948 vì đã dám lên tiếng phản đối chế
độ, tiếp đó phải chịu nhiều cuộc tra tấn khủng khiếp trong nhà tù,
cuối cùng vị Hồng y đã “thú nhận” mình có “âm mưu cấu kết với Tây
phương, chống lại nhà nước xã hội chủ nghĩa”. Văn bản “nhận tội ”
được nhà cầm quyền Hungari tung ra cho toàn thế giới. Thế nhưng trong
phiên tòa tháng 2-1949, ĐHY hoàn toàn phản cung, nói rằng mình đã
bị hành hạ dã man bởi công an Cộng sản. Việc này đã khiến Liên Hiệp
Quốc ra một nghị quyết và Tòa thánh Vatican (qua Đức Giáo hoàng Piô
XII) ra một tông thư mạnh mẽ lên án chế độ.
Tại Việt Nam, cái trò “thành khẩn nhận tội” này đã được Hồ Chí Minh
bày ra từ cuộc Cải cách Ruộng đất, qua vụ Nhân văn Giai phẩm đến vụ
Xét lại chống đảng và tới tận ngày nay... Dùng những thủ thuật như
đánh vào các nhu cầu cơ bản của sự sống, đánh vào tình cảm và liên
hệ gia đình, đánh vào tính khí và xu hướng cá nhân, an ninh và tuyên
giáo cộng sản đã làm cho nhiều kẻ không may bị nhắm đến như thành
phần cần “giáo dục, răn đe”, hoặc bị bắt tù như thành phần cần “cải
tạo, trừng trị” phải công khai xưng thú những tội lỗi không có thật
hoặc không đúng nghĩa, qua những cuộc “lên đồng tập thể” hay “tự vấn
bản thân”. Y như nhà báo Bùi Tín đã mô tả : “Cả lớp học lên đồng
tập thể, tự “vỗ ngực đôm đốp”, cố lập công về “phản tỉnh”, cố đạt
kỷ lục về “thành khẩn”. Không có cũng cố nghĩ ra, tưởng tượng ra,
sáng tạo ra tội giật gân nhất, thường là tội “hủ hoá”: tán tỉnh cô
này, sờ người cô nọ, rủ thôn nữ ra bãi dâu, bên đụn rạ; có khi còn
ly kỳ hóa, phịa ra ý định đầu hàng địch, bỏ ngũ để vào địch hậu, nói
xấu lãnh đạo và lãnh tụ...” (bđd).
Thành ra, khi nghe thấy những ai từng dấn thân vào cuộc đấu tranh
cho tự do, dân chủ, nhân quyền, rồi sau đó bị bắt và bị cho “trình
làng” với thái độ “thành khẩn sám hối, mong được khoan hồng” trước
mặt nhân viên thẩm vấn, chúng ta chớ có vội tin công an và vội lên
án các nhà dân chủ. Những trường hợp tiêu biểu trong các năm gần đây
là vụ chuyên viên Nguyễn Phong, đảng Thăng Tiến tháng 3-2007, vụ luật
sư Lê Công Định tháng 6-2009, vụ bị can Nguyễn Quang Trung ở Tam Tòa
tháng 7-2009, vụ thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, doanh nhân Trần Huỳnh
Duy Thức và trung tá Trần Anh Kim tháng 08-2009. Đối tượng cần lên
án không phải là các nạn nhân mà là các tên đồ tể. Ở đây cần phân
biệt :
1- Bản chất việc “nhận tội”. Những gì chúng ta nghe
được từ miệng 4 nhà dân chủ trên đài truyền hình CSVN ngày 19-08 chỉ
là những hoạt động dân chủ thuần túy, những hành vi đấu tranh bất
bạo động. Việc viết bài, lên tiếng, trả lời phỏng vấn, thành lập chính
đảng, liên kết với người cùng chung chí hướng trong lẫn ngoài nước,
nhằm phê phán sai lầm, tố cáo tội ác của đảng cầm quyền, nhằm công
bố sự thật, đòi hỏi công lý, kiến tạo dân chủ cho toàn dân, tất cả
đều là những việc rất phù hợp với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, với
Công ước Liên Hiệp Quốc về các quyền dân sự, chính trị, văn hóa, kinh
tế và xã hội mà chính Nhà nước VN đã ký kết tham gia. Các việc đó
cũng không đi ngược với điều 69 Hiến pháp VN : “Công dân có quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí ; có quyền được thông tin ; có quyền
hội họp, lập hội, biểu tình”. Đối với thế giới văn minh dân chủ,
đấy là những hoạt động bình thường, chính đáng, được khuyến khích
và biểu dương, vì ngăn chặn được thói lạm quyền và đem lại sự tiến
bộ cho xã hội. Nhà cầm quyền CS không thể dựa vào nhận định của các
nhà dân chủ ấy (cho rằng các hành vi trên là “vi phạm pháp luật”),
để luận tội họ. Một nền pháp chế chân chính, đúng nghĩa chỉ xét chính
bản chất các hành vi, căn cứ trên tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế
là các Công ước về Nhân quyền. Ngoài ra, khi gọi là “phạm pháp” những
hành động mà chính mình trước đó đã tin rằng chính đáng, đã ra sức
quảng bá, đã ung dung thực thi, đã quyết tâm bảo vệ (và chắc chắn
còn xác tín trong tâm lúc “nhận tội”), các nhà dân chủ “tự thú” nói
trên đã mặc nhiên lên án chế độ là bất trí, bất nhân, bất chính, độc
tài, độc ác và độc hại. Ấy là chưa kể trong ngôn từ, cử chỉ, sắc mặt,
họ còn có thể ra một dấu hiệu bí mật nào đó đối với chúng ta. Biết
đâu đấy chỉ là khổ nhục kế để còn có thể phục hận sau này, như bao
tấm gương tự cổ chí kim, từ đông sang tây ! Rồi biết đâu tất cả đoạn
phim chỉ là xảo thuật tinh vi của CS, như giáo sư Nguyễn Chính Kết
đã giả thiết trong bài “Tại sao chúng ta lại dễ tin CS đến như
vậy ?”
2- Phương thức việc “nhận tội” : Xin lưu ý rằng trong mọi
trường hợp kể trên, các nhà dân chủ “nhận tội” đang còn trong giai
đoạn thẩm vấn, giữa bàn tay công an, vốn nổi danh nham hiểm và tàn
bạo (như lịch sử các ngành công an CS chứng thực). Khi mới bị bắt,
họ không được nghe câu “Anh có quyền im lặng, vì mọi lời anh nói
có thể kết án anh” như thấy tại nhiều nền pháp chế văn minh dân
chủ. Họ không thể liên lạc gặp mặt gia đình để được an tâm và an ủi.
Họ không được quyền thuê luật sư ngay cũng như có luật sư ngồi bên
cạnh để cố vấn, để giúp thoát bẫy khi bắt đầu và suốt tiến trình hỏi
cung. Họ phải nghe liên tục những lời kết án, quy chụp của nhân viên
chấp pháp và phải viết liên tục những bản tường trình, kiểm điểm cho
đến khi công an vừa ý, nghĩa là cho đến khi nhận tội. Họ có thể bị
buộc phải xem những bài viết, nghe những bài nói trên báo chí công
cụ vốn được lập tức huy động đồng loạt để đóng vai trò công tố kết
án họ và vai trò hướng dẫn (đúng ra là lèo lái đầu độc) dư luận quần
chúng. Ngoài ra, họ có thể bị tra tấn về thể xác như không cho ăn,
không cho uống, không cho nằm, không cho đi lại, không cho có ánh
sáng hoặc bị ánh sáng quá nhiều (đèn pha cực mạnh chiếu vào gáy, vào
mặt). Đặc biệt nhất là không được ngủ vì bị thẩm vấn đêm này sang
đêm khác. Các bị can trong nhiều vụ án chính trị những năm gần đây
đã tố cáo điều này. Chỉ cần mất ngủ vài đêm là ý chí rất dễ bị đánh
gục. Họ còn có thể bị giam chung (hai người) với một tên đầu gấu,
nghiện ngập hay nhiễm HIV, để luôn luôn cảm thấy mạng sống bị đe dọa
và đâm ra mong muốn kết thúc cuộc thẩm vấn để được an toàn. Nói tóm
lại, việc “nhận tội” trong phòng thẩm vấn, trước mặt công an là hoàn
toàn phi pháp, vô nghĩa, mà chỉ duy mình chế độ CS mới áp dụng. Không
phải nhờ việc ấy mà chế độ CS tăng thêm uy tín và chính nghĩa.
Muốn biết các bị can có thật sự tự thú và ăn năn thì hãy đợi đến ngày
họ ra tòa. Nhưng phiên toà đó phải là một phiên toà công khai, công
minh, dân chủ, đúng luật quốc tế. Nghĩa là sau khi đã chịu một tiến
trình thẩm vấn trong đó mọi quyền lợi bị can của họ được bảo đảm,
thì khi ra toà, mọi quyền lợi của họ xét như một bị cáo phải tiếp
tục được đảm bảo: nghĩa là phải có thân nhân, bằng hữu, báo chí quốc
tế để họ được an tâm, có luật sư như ý muốn để họ được vững lòng.
Họ phải có quyền phát biểu hết ý kiến, chứ không chỉ được trả lời
“có-không”. Luật sư phải được nói một cách tự do, đầy đủ và phải được
quan toà cân nhắc, xem xét, đối chiếu với các ý kiến, lập luận của
bên công tố, bên luận tội. Ngoài ra, tòa án phải xét xử theo một bộ
luật đúng tinh thần tôn trọng nhân quyền. Nhưng thực tế của ”tòa án
nhân dân” CS kể từ năm 1954 đến nay làm cho chúng ta hoàn toàn không
hy vọng điều ấy.
Một điều hết sức ý nghĩa là “lời thú tội” của 4 nhà dân chủ được phát
ra vào chính ngày kỷ niệm cái gọi là “Cách mạng tháng Tám”. Theo các
nhà phản tỉnh gần đây như Bùi Tín, Trần Lâm, Tô Hải (phỏng vấn của
RFA ngày 25-08-2009), đó không phải là ngày “cướp chính quyền
từ tay Pháp và Nhật” như CS nói mà chỉ là “cướp chính quyền
Trần Trọng Kim”, một chính quyền hợp pháp, xứng đáng và đầy năng
lực, để rồi từ đó cướp hết mọi nhân quyền và dân quyền của người Việt.
Đó là ngày đảng CS cướp chính quyền cho riêng mình, chứ không phải
cho dân tộc được độc lập và công dân được tự do. Vụ “nhận tội” của
4 nhà dân chủ cùng ngày kỷ niệm là một bằng chứng !
Ban
Biên Tập (số 82, ngày 01-09-2009)
-Nhấn
vào Link này để "download" (save as) Bán nguyệt
san TDNL ở dạng (format): .pdf, sẽ chậm (xin kiên
nhẫn!), nếu bạn không sử dụng đường dây cao tốc Internet DSL, nhưng
toàn bộ mỗi số báo 32 trang sẽ giữ dạng nguyên thủy, như là 1
file duy nhất: http://www.tdngonluan.com/pdf/TuDoNgonLuan_So82_September2009.pdf
....................................................................................................