Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng (1259-1285)
sống mãi trong tim hồng của Dân Việt nhờ câu nói bất khuất trung dũng:
“Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”.
Tập đoàn lãnh đạo CSVN hiện thời cũng sẽ sống mãi trong tim
đen của Dân Việt qua câu nói: “Ta thà làm Thái thú đất Bắc còn
hơn làm người bảo vệ nước Nam”.
Dĩ nhiên đám cầm quyền này (cụ thể là 15 thành viên trong Bộ Chính
trị hiện thời) không thốt ra từng chữ câu trên nhưng đã và đang bày
tỏ điều ấy qua từng hành động của họ. Khởi từ và bắt chước Hồ Chí
Minh, học trò nhiều mặt của “Mao chủ tịch vĩ đại”, tập đoàn lãnh đạo
CSVN từ trước tới nay chỉ có một sự nghiệp duy nhất: mở đường, mở
biên giới, mở hải lộ cho Trung Cộng tiến xuống phía Nam, thôn tính
đất Việt để mình được muôn đời làm Thái thú. Họ luôn câm họng trước
những đòi hỏi ngang ngược của Kẻ thù truyền kiếp phương Bắc, kể từ
đòi hỏi về hải phận 12 hải lý ngày 14-09-1958 (Công hàm bán nước),
qua đòi hỏi về Ải Nam quan, thác Bản Giốc ngày 30-12-1999 (Hiệp định
biên giới), đòi hỏi về 47% diện tích biển Đông ngày 25-12-2000 (Hiệp
định vịnh Bắc bộ), đòi hỏi về khai thác bauxite ở Tây Nguyên ngày
03-12-2001 (Tuyên bố Việt-Trung) rồi ngày 01-11-2007 (Quyết định 167/QĐ-TTg),
đến đòi hỏi về việc đánh cá ngày 16-05-2009.
Nói cho ngay, đôi khi cũng có vài lời phản kháng của phát ngôn viên
bộ ngoại giao CSVN, nhưng đó chỉ là những ngôn từ hết sức yếu ớt,
vô cùng chiếu lệ, chẳng kèm theo hành động gì trên thực địa và trước
quốc tế cả. Ngày 8-1-2005, Trung Cộng bắn chết 9 ngư dân Thanh Hóa,
thế nhưng Phan Văn Khải (thủ tướng CSVN) và Nguyễn Di Niên (ngoại
trưởng) vẫn câm họng về vụ việc trước Cố Tú Liên (phó chủ tịch Quốc
hội TQ) và Tề Kiến Quốc (đại sứ TQ tại Việt Nam), một chỉ nâng ly
chúc mừng mối quan hệ 50 năm thần phục. Gần đây hơn, giữa lúc tàu
vũ trang của Trung Cộng cấm cản, cướp bóc, phá hoại tàu đánh cá của
Việt Nam, làm ngư trường sóng gió, ngư dân điêu đứng, ngư nghiệp lụn
bại, thì ngày 25-05, bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Á-Âu lần
thứ 9, Ngoại trưởng CSVN Phạm Gia Khiêm vẫn chỉ biết xun xoe trước
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì rằng “quan hệ hai nước
thời gian vừa qua tiếp tục có những tiến triển quan trọng… quan hệ
đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung nhất định sẽ tiếp
tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa”. (x. TTXVN 25-05-2009). Hôm sau,
đến phiên Nông Đức Mạnh lại trâng tráo bày tỏ trước tên đại diện Thiên
triều: “Đảng, Nhà nước và nhân dân VN luôn coi trọng việc phát
triển quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với TQ, vun đắp cho quan
hệ đó ngày càng đơm hoa kết trái” (x. http://www.cpv.org.vn).
Ngày 04-06, thay vì triệu Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường tới Bộ
Ngoại giao để trao công hàm phản đối, Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn lại nhục
nhã lết đến trụ sở của tên đại diện này, van xin hắn đừng “tăng
cường tàu tuần tra, bắt, phạt tàu cá Việt Nam… đừng cản trở công việc
làm ăn bình thường của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc chủ quyền
của Việt Nam nữa” (x. TTXVN 06-06-09). Đến ngày 12-6,
Nông Đức Mạnh lại tiếp Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị Trung
Cộng với những lời lẽ của lũ bầy tôi khiếp nhược: “Chuyến thăm
Việt Nam lần này của Đoàn thể hiện sự quan tâm và coi trọng của lãnh
đạo cấp cao Trung Quốc đối với việc thúc đẩy quan hệ giữa hai Đảng,
hai nước, là biểu hiện sinh động của việc xây dựng quan hệ đối tác
tác chiến lược toàn diện Việt-Trung; VN đánh giá cao việc hai nước
hợp tác có hiệu quả ở tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức nhân
dân, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung Quốc
lên một tầm cao mới”. (x. TTXVN 13-06-2009). Cái gì
đã khiến cho những tay lãnh đạo chóp bu này phải câm miệng trước quốc
nhục và quốc họa nhãn tiền trên Biển Đông như vậy? Đến phiên Nguyễn
Tấn Dũng lại câm miệng về chuyện bauxite trong kỳ họp thứ 5 Quốc hội
khóa 12 (20-05 đến 20-06) vì đã được Trung Cộng tống vào họng 150
triệu đôla từ tháng 10-2008 (theo Chân Trời Mới 17-06-2009)
Và như một mặc cảm bù trừ, càng câm miệng trước Đại Hán bao nhiêu,
lãnh đạo Cộng sản Việt Nam càng bịt miệng người dân Việt Nam bấy nhiêu.
Nạn nhân đầu tiên của họ chính là cái Quốc hội bù nhìn, nơi lẽ ra
vang lên tiếng nói trung thực của nhân dân. Thế nhưng, 12 khóa Quốc
hội lại chỉ là 12 đợt gia nô hoàn toàn câm nín để sống còn, ngậm miệng
để ăn lương, chuyên giơ tay “nhất trí cao” để tỏ ra “phấn khởi lớn”
trước đảng. Từ 1946 đến nay, cái Quốc hội khốn khổ và khốn nạn này
đã im re trước Công hàm bán nước 1958, đã nhắm mắt ký bừa hai hiệp
ước lãnh thổ (1999) và lãnh hải (2000), đã thản nhiên ra bừa vô số
luật, nghị quyết, pháp lệnh chỉ có lợi cho đảng. Gần đây nhất, kết
thúc phiên chất vấn ngày 13-06, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng
-bất chấp sự phản kháng của toàn dân- đã thay mặt các đại biểu để
lên tiếng (thực chất là câm lặng) trước đảng như sau: “Vấn đề
thăm dò, khai thác và chế biến bôxít ở Tây nguyên là vấn đề rất lớn,
nhạy cảm, được nhiều cử tri đại biểu quan tâm và tất cả các ý kiến
đều đồng ý về chủ trương, chứng tỏ có sự đồng thuận lớn. Nhiều đại
biểu đã góp ý cho dự án về nhiều mặt: kinh tế, môi trường, an ninh,
công nghệ, bản sắc văn hóa dân tộc... Các ý kiến đều có tính xây dựng,
thể hiện tinh thần trách nhiệm cao… Quốc hội sẽ tiếp tục giám sát
dự án này trên cơ sở của sự đồng thuận và ủng hộ, bảo đảm làm sao
cùng Chính phủ, cùng với các cơ quan khác trong toàn hệ thống chính
trị thúc đẩy thực hiện cho được chủ trương mang tính chiến lược rất
quan trọng này" (x. Tuổi trẻ online 13-06).
Nạn nhân thứ hai bị buộc phải câm lặng là báo chí, vốn phải là tiếng
nói của nhân dân, phản ảnh của công luận, cơ quan của sự thật. Thế
nhưng, theo nhà văn Võ Thị Hảo (bài Ngày báo chí Việt Nam 21-6-2009
: một lễ cầu siêu...), “sau sự kiện nhà xuất bản Đà Nẵng và báo
Du lịch bị tạm đình bản… thì diện mạo xã hội Việt Nam và làng báo
Việt Nam, cho đến giữa năm 2009 này có “nhiều điều trông thấy mà đau
đớn lòng…” Đó là sự “nhắm mắt”, sự “xuôi tay” của báo chí trước rất
nhiều sự thật. Mà những sự thật đó mật thiết đến sự tồn tại và phát
triển của đất nước và quyền tự do dân chủ của công dân… Báo chí -niềm
hy vọng cuối cùng của công dân trong việc giám sát, sự minh bạch và
công khai- đã ở vào tình thế nhiều khi buộc phải “nhắm mắt”, “xuôi
tay”, nên lâu nay, mỗi ngày là một đại lễ hân hoan cho thế giới sâu
mọt phá hoại nền kinh tế đất nước và phá hoại đạo đức xã hội… Cách
thông tin của nhiều tờ báo hiện nay, đối với nhiều sự kiện quan trọng,
được nhiều công dân hình dung thế này : Một tiếng búa gõ xuống, con
gà được phép mổ một hạt thóc. Ngừng gõ, gà đừng mổ… Năm 2009 là năm
báo chí Việt Nam, như nhiều người vẫn nói, “đành ngậm ngùi nhắm mắt
xuôi tay”. Những người có lương tâm nghề nghiệp thì đành viết những
bài “vô thưởng vô phạt”, làm công ăn lương. Những người không có lương
tâm thì hả hê…”, nhất là nếu được bồi dưỡng kiểu 300K như sau
cuộc họp báo của Công an về vụ Ls Lê Công Định!
Nạn nhân thứ ba chính là những người mà chức năng nghề nghiệp là lên
tiếng cho công lý, tức các luật sư. Thế nhưng, thời gian gần đây,
vụ sách nhiễu Luật sư Lê Trần Luật và các cộng sự vì “tội” biện hộ
cho giáo dân Thái Hà và dự định biện hộ cho các nhà dân chủ Khối 8406
đang bị giam, vụ bác đơn của Luật sư Cù Huy Hà Vũ vì “mưu đồ” kiện
thủ tướng CS ra tòa do đã làm trái luật bảo vệ môi trường, luật quốc
phòng, luật di sản văn hóa, luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
khi ra quyết định 167/2007 về việc khai thác bauxite Tây Nguyên, đặc
biệt nhất là vụ bắt Luật sư Lê Công Định vì “tội” có những hoạt động
dân chủ như viết bài đề cao pháp trị đa nguyên, soạn Hiến pháp mới,
biện hộ cho các nhà đối kháng, tham gia các chính đảng đấu tranh bất
bạo động, và dự tính cùng với luật sư Lê Quốc Quân kiện Trung Quốc
ra quốc tế vì đã cấm ngư dân Việt Nam đánh cá trên vùng biển của Việt
Nam (ông bị bắt khẩn cấp một ngày sau chuyến viếng thăm của Lý Nguyên
Triều), tất cả những vụ đó chứng tỏ đảng ra ra sức bình sinh bịt miệng
các phát ngôn nhân của lẽ phải. Điều đáng xấu hổ là trong vụ này lại
có sự “tung hứng theo đảng” của hai nhân vật nổi tiếng: Một là “giáo
sư đại biểu” Nguyễn Lân Dũng vốn kết án Ls Định kiểu ngu trung: “Việc
lập ra cả một Hiến pháp mới là chuyện hết sức phi lý. Đó là điều không
ai có thể chấp nhận… Điều gì không phải thì nên phản biện, chứ không
phải là thái độ kích động để lật đổ chính quyền. Điều đó là phạm pháp
rõ ràng”. Hai là “luật sư đại biểu”
Nguyễn Đăng Trừng, Chủ nhiệm Luật sư đoàn thành Hồ, vốn đã mau mắn
đón ý ông chủ đảng mà ký quyết định xoá tên luật sư Định (từng làm
phó cho ông ta) trong danh sách luật sư đoàn đang khi sự việc chưa
ngã ngũ. Bị bịt miệng hay tự bịt miệng?
Dĩ nhiên cũng phải kể đến những nạn nhân thường xuyên, chính hiệu,
được quan tâm đặc biệt, tức những công dân ngoài vòng bộ máy nhà nước
mà đã và đang nhất định không chịu câm miệng và không để cho đảng
dễ dàng bịt miệng trước bao sai lầm và tội ác của đảng, trước bao
bất công và thống khổ của dân, trước bao nguy cơ và thảm họa của nước.
Đó là các nhà đối kháng dân sự và đối kháng tôn giáo vốn đã và đang
lên tiếng qua hình ảnh bị bịt miệng, qua sự im lặng trong nhà tù,
qua tình trạng bị sách nhiễu quản chế, qua cảnh bị cướp bóc phương
tiện, qua nỗ lực mở miệng, viết bài, tung chiến dịch lấy chữ ký, tập
hợp quần chúng cách can đảm và đầy trí tuệ để bày tỏ thái độ…
Tuy nhiên, với tình thế hiện nay, chỉ lên tiếng khi đảng chưa đến
bịt miệng và chưa kịp bịt miệng thôi không đủ. Cần phải mạnh mẽ và
vĩnh viễn gạt bàn tay bịt miệng của cái thế lực gian trá và côn đồ
đó. Ngoài việc lên tiếng cách cá nhân và tập thể, đã đến lúc nhân
dân phải xuống đường, phải biểu tình, phải cất giọng long trời lở
đất để làm im bặt mãi mãi tiếng nói độc quyền đã làm mưa làm gió trên
đất Việt suốt mấy chục năm nay.
Ban
Biên Tập (số 78, ngày 01-07-2009)
-Nhấn
vào Link này để "download" (save as) Bán nguyệt
san TDNL ở dạng (format): .pdf, sẽ chậm (xin kiên
nhẫn!), nếu bạn không sử dụng đường dây cao tốc Internet DSL, nhưng
toàn bộ mỗi số báo 32 trang sẽ giữ dạng nguyên thủy, như là 1
file duy nhất: http://www.tdngonluan.com/pdf/TuDoNgonLuan_So78_1July2009.pdf
....................................................................................................